Chầu Bát Tiên La – Chầu Tám Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân
Tiên La sự tích nữ trung can
Nổi tiếng anh linh đức Bát Nàn
Dựng nước ba sinh triều Trưng nữ
Giúp dân thoát khỏi ách lầm than
Chầu Bát Tiên La hay còn được gọi là Chầu Tám Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân là một vị Chầu Bà giáng sinh dưới thời nước Đại Việt ta còn đang chịu cảnh ách đô hộ của quân Đông Hán…Quê bà vốn ở vùng phượng lâu, Bạch Hạc, Phú Thọ. Sau khi cùng chị em nhà Trưng Trắc, Trưng Nhị đánh giặc Đông Hán rồi bà thác tích tại đất Hưng Hà, Thái Bình ngày nay. Vì công lao của bà nên nhân dân đã lập đền thờ phụng.
Tương truyền họ Vũ vốn dòng nhà hảo phú, một hôm ông Vũ Chất đi dạo chơi qua vùng núi nọ, thấy một ngôi miếu của Sơn Tinh Công Chúa bị đổ nát hoang tàn, ông đã hiệu triệu nhân dân quanh vùng góp tiền của công sức để tu sửa lại miếu được khang trang, khi về nhà đêm về ông có nằm mơ thấy một cô tiên nữ xinh đẹp tới xin làm con của vợ chồng ông, để báo đáp công ơn xây dựng tôn tạo lại miếu. Kế đó vợ ông thấy gió thu thổi và có bóng người tiên nữ trước làn hoa rơi trước hiên nhà, sau đêm đó thì vợ ông thụ thai, tới ngày rằm tháng tám thì hạ sinh Chầu Bà và được đặt tên là Vũ Thị Thục Nương, ngay từ nhỏ Bà đã là một cô con gái thảo hiền nết na, lớn lên Bà cò giỏi việc cung kiếm. Lúc đó Thái Thú Giao Châu là Tô Định đem lòng si mê và uốn kết duyên cùng Bà nhưng Bà không đồng ý, Tô Định nổi trận lôi đình liền giết hại cha và lang quan của Bà…Thù nhà nợ nước quá sâu sắc, Bà đã tập hợp nghĩa quân phất cờ khởi nghĩa, lưu truyền rằng vào đêm đông đó Bà đã nằm mơ thấy một nữ thần vâng lệnh Vua Cha Ngọc Hoàng xuống trần trao cho Bà một lá cờ thần ( cờ xan ) và nói rằng Bà hãy tụ họp cùng nghĩa quân của Hai Bà Trưng để đánh giặc, Chầu đã làm theo ta trời đưa quan về tụ họp với nghĩa quân của Hai Bà Trưng….Chầu được Hai Bà Trưng sắc phong là Đông Nhung Bát Nàn Đại Tướng Quân, Chầu cùng với Bà Lê Chân ( Thánh Thiên Công Chúa ) trấn giữ vùng duyên hải từ Hải Phòng Về Thái Bình bây giờ.
Năm 43 SCN, ba năm sau khi nước nhà độc lập, quân Đông Hán dưới thời của Mã Viện quay lại chiếm đóng nước ta lần nữa, Chầu cùng Hai Bà Trưng đã trống chả quyết liệt nhưng do thế lực yếu nên Bà đã thất bại, trong cuộc chiến cuối cùng Bà đã trẫm mình xuống dòng sông để bảo toàn khí tiết, thân xác Chầu trôi về vùng duyên hải Thái Bình ( nay là thôn Tiên La xã Đoan Hùng huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình ngày nay )….Ở đây nhân dân đã vớt thân xác Chầu lên và lập đền hương khói để ghi nhớ công ơn to lớn của Chầu, sau này Chầu còn linh ứng báo mộng cho nhân dân trong vùng thoát khỏi trận lũ lụt lớn, vì thế Chầu còn được nhân dân gọi là Mẫu Tiên La hay Bà Chúa Bát Nàn…
Chầu Bát cũng rất hay ngự đồng, cũng giống như chầu Mười Đồng Mỏ Chi Lăng, khi về đồng chầu bát mặc áo vàng, đầu đội khăn đóng màu vàng, thắt đai hoặc vải lụa vàng, sau lưng dắt kiếm và cờ lệnh ngũ sắc. Đền thờ Chầu có ở rất nhiều nơi, nhưng nổi tiếng nhất là đền Tiên La xã Đoan Hùng huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình, ngày chính tiệc Chầu là ngày 17/3 âm lịch hàng năm…
Bản Văn Chầu Bát Nàn Tiên La.
Ai về thăm tỉnh Thái Bình
Nhớ về Bái Yết động đình vua cha
Ai về thăm huyện Hưng Hà
Nhớ vào bái yết bát ngàn đại tướng quân
Ngôi đền thờ đại tướng đông nhung
Quê người trên Bạch Hạc ngự miền thượng
lâu
Vào những năm trước đầu thế kỷ
Năm 43 khi trước công nguyên
Có người con gái ở miền Thượng Lâu trên
Bạch Hạc
Chầu bà tự nhiên kéo về
Chầu nặng lòng son thu nhà nợ nước
Cùng Trưng Vương cất bước tiến lên
Phất cờ vung kiếm mở đường
Ra tay quét sạch những phường gian tham
Bỗng cơn gió núi mưa ngàn chuyển
Ầm ầm binh mã kéo về Tiên La
Vào chùa lễ phật di đà
Sử kinh binh pháp mượn đà náu nương
Nơi cửa phật sớm tối đèn hương
Chí toan mưu lớn tìm đường cứu dân
Vào buổi sáng mùa xuân năm ấy
Năm Nhâm Dần 17 tháng 3
Nghĩa quân đứng chặt quanh bà
Đang nghe lời hịch chầu bà truyền ra khắp
vùng
Quân Tô Địch nó ầm ầm kéo tới
Phát gươm đao phơi phới cờ bay
Bốn bề khép chặt vòng vây
Lòng sâu kế hiểm nó ra tay hại người
Nữ chầu bà quyết không sa tay giặc
Hô nghĩa quân quyết chiến xông ra
Kiếm cung trận mạc xông pha
Việt Nam thủa dưới quyền Đông – Hán
Giang sơn ta ảm đạm thê lương
Giận thay Tô Định bạo cường
Đem quân giày xéo quê hương cõi bờ
Thủa bấy giờ có nhà họ Vũ
Nảy chồi lan một nụ xinh tươi
Nhụy phong, trăng khuyết tuổi mười
Thơ văn xem cũng ít người khôn so
Lực cử đỉnh dành cho nữ kiệt
Đường kiếm hoa khoanh nguyệt rạch mây
Tuổi xuân vừa độ trăng đầy
Môi son má phượng, má hây tuyết hồng
Nét ngọc tring sánh cùng trăng nước
Tô Định kia muốn ước duyên hài
Từ thân quyết một liều hai
Lẽ đâu lại gả cho loài súc sinh
Tô Định nổi bất vình sấm sét
Sai chặt đầu Vũ Chất làm đôi
Máu hồng lòng trẻ sục sôi
Thét đòi nợ máu vung đôi kiếm thần
Máu thù ngập đôi chân nữ kiệt
Tấm áo xanh màu huyết phủ Giầy
Tay thần phá mấy vòng vây
Gót tiên mải miết trời mây tối dần
Băng tới bến thấy thuyền nan nhỏ
Đôi kiếm thần thuận gió chèo bơi
Lệ sầu gieo rải sông xuôi
Bảy ngày đêm đội trời đạp nước
Rẽ sậy lau tìm chốn nương than
Tiên La cảnh ấy tĩnh tâm
Nấp sau Tam Bảo dần dần thiếp đi.
Lòng lo nghĩ thù nhà nợ nước
Bao dân lành chẳng được yên thân
Tiên La chiêu dụ nghĩa quân
Tích lương luyện kiếm cùng dân dẹp thù.
Trưng nữ vương nữ trung anh tú
Biết thục nương nữ chủ phất cờ
Sai quân mời hịch bấy giờ
Ba cây chụm lại lên gò núi cao.
Hợp nghĩa binh ba đào bảy động
Thục nương thời đại tướng tiên phong
Ra quân sấm động uy hùng
Dẹp tan quân giặc sắc phong Bát Nàn.
Ba năm giữ giang san đất nước
Quân Hán thời quen thói bạo tàn
Sai quân Mã Viện kéo sang
Lệnh truyền binh mã sẵn sàng xông pha
Quân kéo về ngã ba đồng mỏ
Giặc ngông cuồng cờ đỏ vây quanh
Lệnh truyền hiệu triệu khắp thành
Thù nhà nợ nước quên mình xông pha
Đêm thanh vắng canh ba lạnh lẽo
Hạt mưa rơi nặng trĩu ngàn cân
Gươm thề kiếm tuốt lồng tay
Lâm râm khấn nguyện đất dày trời cao.
Có thấu phận tơ đào liễu yếu
Hận thù nhà há chịu khoanh tay
Phạm Hương chàng hỡi có hay
Chứng cho lòng thiếp giãi bày hôm nay.
Khấn xong chầu đốt xác quân thù
Thung dung nhẹ bước trời vừa rạng đông.
Quân Mã Viện ầm ầm kéo tới
Bủa quân vây phơi phới cờ bay
Hùm thiêng gặp nước không may
Lẽ đâu lại để vào tay bạo tàn.
Lấy kiếm bạc thân đào tự sát
Gốc thông kia ghi tạc sử xanh
Bát Nàn đại tướng nổi danh
Tháng ba mười bảy năm Dần về tiên.
Anh linh rực rỡ vạn niên
Dấu thiêng ghi để lưu truyền đời sau
Đệ tử con khấu đầu vọng bái
Tiến văn chầu ôn lại tích xưa
Bao năm dầu dãi nắng mưa
Công ơn muôn thửở ngàn đời không phai.