Vào thời kỳ sơ khai mở nước Văn Lang ta, trên thiên đình có nàng tiên nữ thứ 3 đến chầu thượng đế ,chẳng may làm vỡ chén ngọc, trăm quan nghị tội, giáng xuống thủy cung làm con gái Thủy Quốc Động Đình Long Vương, sau gả cho Đô Đốc Côn Bằng đại tướng quân Kinh Xuyên.Vợ lẽ của Kinh Xuyên là Thảo Mai, thấy nàng tài sắc bèn đem lòng ghen ghét, giả làm 1 bức thư, tố cáo Kinh Xuyên vu nàng tư thông phản bội chồng. Kinh Xuyên giận dữ đầy nàng lên trần thế ,10 năm sống ở núi Ngọc Hồ Kim Quy, làm bạn với chim muông cầm thú ,sinh sống bằng hoa trái qua ngày. Một hôm thấy gió lướt mặt hồ, mây đùn lưng núi, tưởng nhớ quê nhà, thương cha nhớ mẹ, lòng buồn bã rối bời, nhân đó nàng ngâm 1 bài thơ rằng:
“Từ biệt Kinh Xuyên trải mấy thu
Trời xanh mây lượn nhớ quê nhà
Tiêu dao trần thế bao ngày tháng
Cố hương thủy quốc biết nao về.”
Tiếng ngâm chưa dứt mà dòng lệ chứa chan, tựa vào gốc cây, tinh thần mê man lúc say lúc tỉnh.
Lại nói thời ấy có 1 người ở xã Ngọc Lạp,huyện Thanh Miện, phủ Hồng Châu, đạo Hải Dương, họ Liễu, tên Nghị, là danh sĩ thời bấy giờ. Một hôm Nghị cùng 1 vài tên ra đồng chèo thuyền đến Ngọc hồ ngắm cảnh, để hưởng thú vị ngư ông. Thuyền đến hồ Kim Quy, bỗng nghe tiếng ngâm thơ văng vẳng, lời lẽ thảm thê, trong lòng lấy làm lạ, bèn nói với bọn ra đồng đi theo rằng:”Không biết thần tiên hay ma quỷ mà lại có lời lẽ thê thảm đến như vậy.” Ông bèn cho người dừng thuyền bên bờ quan sát thấy người con gái tuổi độ 18, mi xanh như liễu rủ, má thắm tựa hoa đào, dẫu tiên nữ ở cung trăng, hay phi tần nơi thượng giới, cũng không thể hơn được. Ông cười và bảo rằng:”Cốt cách trần thế mà dáng vẻ thần tiên, may mắn nay gặp gỡ, nếu không phải là trăng rằm thì cũng là băng tuyết quy hòa nhập lại.” Nhân dó ông mới hỏi về nguồn gốc nguyên do, người con gái ứa lệ thưa rằng:” Thiếp vốn là con gái Động Đình Quân là vợ của Kinh Xuyên, chẳng ngờ thiên xứ dáng họa vô cớ, nay may gặp người tốt ở đây, dám xin người có kế sách gì cứu giải oan khiên, thiếp nguyện thề có sông núi không quên ơn nghĩa.
Liễu Nghị lại hỏi, “Dương gian thủy quốc cách biệt lấy gì mà nghe thấu được” nàng nói :
– Thiếp có một cây kim thoa trao cho ngài, cảm phiền đi đến bờ biển Đông Hải, hễ thấy cây Ngô Đồng thì cầm cây Trâm gõ vào ba tiếng tất thảy thủy cung sẽ đều nghe biết.
Nói xong nàng đứa một phong thư nói rõ sự việc rồi đưa thứ và cây Trâm cho Liễu Nghị. Sau khi từ biệt người đẹp Liễu Nghị gắng sức lên đường, qua bẩy ngày đêm đến cửa biển Đông Hải (nay là cửa Diêm Hộ huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình) bỗng thấy cây ngô đồng cổ thụ, ông làm đúng lời người con gái dặn, tay cầm kim thoa gõ vào gốc cây ngô đồng, bỗng thấy một con rắn trắng nổi lên khỏi mặt nước, Liễu Nghị đem sự việc trên nói với rắn, rắn trắng rẽ nước đưa ông về thủy phủ. Đến nơi ông vào bái yết Long Vương trình rõ sự việc và đem thư cùng trâm vàng dâng lên. Long Vương xem xong thư bèn truyền rắn trắng đưa Liễu Nghị về lầu Nam dọn tiệc khoản đãi. Ngay hôm đó truyền sai con trai là Xích Lân và quân thủy tiến thắng đến xứ Ngọc Hồ Kim Quy đón công chú về thủy quốc.
Ngày mùng 9 tháng Giêng gả công chúa cho Liễu Nghị và phong làm Phò Mã Quốc Tể quận công đồng thời cho cùng ở thủy phủ với công chúa. Sai lục bộ thủy tề đầy Kinh Xuyên và Thảo Mai lên Ngọc Hồ Kim Quy.
Lại nói từ khi công chúa về thủy quốc tất cả dân hai bên bờ sông Cái từ thượng nguồn nơi Ngọc Hồ Kim Quy đến hạ lưu Ba Lạt – Thái Bình đều mắc bệnh dịch.Dân chúng cùng quan lại bèn lập đàn cầu nguyện và dâng biểu lên Thượng đế. Trang Xâm Miện, xã Xâm Thị, huyện Thanh Đàm (nay là Xâm Dương, Ninh Sở, Thường Tín, Hà Nội) vào nửa đêm dân làng đều nghe thấy tiếng chố sủa liên hồi và mơ thấy một người con gái mình mặc áo trắng mang đai ngọc lưu ly ngự trên rồng vàng bay lên từ mặt nước nói rằng :
Ta là con gái động đình Long Vương, Thủy Tinh Ngọc Dung Công Chúa, Thượng đế sắc phong cho ta giúp nước cứu dân cõi Nam Giao, nay dân chúng gặp tai họa ta phụng lênh thượng đế đến cứu giúp. Sau được bình yên lên dựng miếu thờ viết thần vị thì ắt được nhân khang vật thịnh.
Trời sáng các vị bô lão cùng dân làng ai cũng nói có cùng giấc mơ như vậy, và bệnh tật dần tiêu tan hết. Bèn cùng nhau xây dựng ngoi miếu thờ hàng năm Quốc cầu, dân đảo đều linh ứng rõ rệt.
Lại nói đến thời Trần Nhân Tông giặc Nguyên Mông xâm phạm bờ cõi nước ta, đức Vua mới ban búa Việt Cờ Mao cho Hưng Đạo Nhân Vũ Đại Vương tiết chết thủy lục chư binh chống giặc. Một lần Hưng Đạo Đại vương kéo quân qua Xâm Dương trời đà xẩm tối bèn cho quân sỹ thuyền bè neo đậu lại bên sông nghỉ lại. Đương đêm bỗng thấy sóng nổi cát bay mây trời vần vũ, một chốc bống thấy mặt nước long lanh ánh bạc một người tiên nữ mặc áo trắng, đai lưu ly cưỡi rồng vàng bay lên mặt nước. Vương cả kinh nhưng tiên nữ bèn nói:
– Ta phụng mệnh thượng đế hộ quốc an dân, nay Quốc Công Tiết Chế hành quân qua đây xin âm phù giết giặc.
Quả nhiên ít lâu sau thuyền giặc kéo qua Xâm Dương thì bỗng dưng nổi sóng to gió lớn thuyền bè quân lương đều chìm cả, giặc chết vô số .Các trận chiến trên Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương Đô, Đông Bộ Đầu….Đều có Thánh mẫu linh phù làm sóng to gió lớn chìm tàu bè giặc chết đuối nhiều giúp quân ta thừa thắng. Vận nước thái bình, triều đình luận tội phong công. Quốc Công bèn làm biểu tâu lên rõ sự việc linh phù ở Xâm Dương. Triều đình luận công Thánh Mẫu ban thưởng cho dân Xâm Dương tiền bạc xây dựng ngôi đền to lớn và ruộng đất để lo việc cúng tế hàng năm đồng thời sắc phong Thánh Mẫu là :
THỦY TINH NGỌC DUNG CÔNG CHÚA,NGUYÊN TẶNG HOÀNG LONG, TĨNH HẠNH, ĐOAN TRANG,ANH LINH, THỤC DIỆU PHU NHÂN.Các triều sau đều cho dự vào hàng quốc điển hàng năm cúng tế hương hỏa không dứt lại tặng thêm nhiều mỹ tự cho thần.
THỦY TINH NGỌC DUNG XÍCH LÂN LONG NỮ CÔNG CHÚA, TẶNG PHONG HOÀNG LONG, ĐOAN TRANG, TĨNH HẠNH, ANH LINH, THỤC DIỆU, HỘ QUỐC, TÝ DÂN,DỰC BẢO, TRUNG HƯNG, THƯỢNG ĐẲNG TỐI LINH THẦN.Danh mục sắc phong :
Trần triều 7 đạo
Lê triều 13 đạo
Nguyễn triều 8 đạo