TRẦU SAY Giữa hai cột hiên nhà Dây võng nghiến vào gỗ. Đong đưa con ngủ Kẽo kẹt tiếng võng In hằn móng ngựa Miết trên đường làng Cỗ xe khát vọng. Con có ở trên đời Như sợi khói chui ra từ cọng rạ Cay mắt mẹ đun độ mưa dầm. Ngày không Con khóc lặng Mẹ khóc thầm À ơi... Cái cò đi đón cơn mưa Nước dâng ngập bến cò xưa không về. Lời ru bay lên Ngọn tre làng cong ngàn dấu hỏi. Lời ru run lên Nghê đá đình làng nhe răng không nói. Lời ru ra cánh đồng Lúa ngậm đòng hết thì con gái. Lời ru trở về bên cánh võng Liềm cùn Mẹ không gặt con trên cánh đồng tình yêu Mẹ không gặt con trên cánh đồng hoan lạc Mẹ không gặt con trên cánh đồng người. Cánh đồng thứ nhất lá trầu Cánh đồng thứ hai trái cau Cánh đồng thứ ba vôi trắng Mẹ đã trao một người ra trận. Để rồi hai mươi năm sau Mẹ gặt con trên cánh đồng trớ trêu số phận. Trầu say Có ấm mẹ chăng tháng ngày tủi cực Chẳng thể nuôi con bằng những miếng trầu Cánh phượng bay trong tầm tã mưa mau. Bỏ lại hàng cau Bỏ lại giàn trầu Bỏ lại bình vôi Mẹ bồng con lên núi Không dám đợi hòa bình. Bây giờ Những năm tháng cuối Trông chiều đưa bóng núi Mẹ têm trầu Cánh phượng muốn bay. Trước đây, dòng thơ dân tộc và miền núi đi thẳng từ cổ sơ đến hiện đại, chúng ta đã có Y Phương và giờ đây, thật đáng ăn mừng là có thêm Đỗ Thị Tấc. Tấc người Hưng Yên, lên Lai Châu từ thuở lên ba, điệu thức những bài ca cổ sơ của Tày Thái, của Hà Nhì đã vận vào để, chẳng những làm nên điệu tâm hồn, nó còn góp phần làm nên thi pháp của nhà thơ tương lai. Hãy nghe Đỗ Thị Tấc nói về thói quen bước của người miền núi, chỉ một câu, thân phận lam lũ một đời người đã hiện ra: “Đầu gối mẹ đi không thẳng/ Đất bằng/ bước chân nào cũng hẫng”…