Tín ngưỡng tứ phủ - những giá trị hiện thực !

Thảo luận trong 'Tin tức Đạo Mẫu' bắt đầu bởi ngocduy, 4/8/12.

Lượt xem: 1,043

  1. ngocduy

    ngocduy Moderator

    Phần 1 :
    Bùi Trọng Hiền

    Xin được thưa trước, bài viết là những tổng kết, trải nghiệm của nhiều năm điền dã ở hệ thống các đền phủ thờ Mẫu, là sự đúc kết qua rất nhiều cuộc phỏng vấn các chân đồng, cung văn lão thành trên nhiều địa bàn. Đây là góc nhìn tham chiếu của người nghiên cứu khoa học, không có ý ca ngợi cổ súy hay bài bác niềm tin tín ngưỡng.
    [​IMG]

    1.Vai trò của các nhân thần:
    Từ thời nguyên thủy, trong những hình thức tín ngưỡng sơ khai, con người lúc ban đầu chủ yếu tôn thờ các hiện tượng thiên nhiên, các thế lực siêu nhiên- đó là những nhiên thầnthiên thần. Thần cây, thần rừng, thần núi, thần biển, thần nước.., các biểu tượng bái vật giáo hay các thiên thần đều là những đối tượng được xem như khởi đầu cho mọi hình thức tôn giáo tín ngưỡng nói chung.
    Trải theo thời gian, trong quá trình phát triển, nhiều hình thức tôn giáo tín ngưỡng dần tự thân đòi hỏi tính hiện thực của nó trong đời sống thế tục. Để làm được điều đó, cộng đồng những người thực hành tín ngưỡng đã thích ứng, sáng tạo ra những đối tượng thờ phụng mới nhằm bồi đắp thêm cho hệ thống điện thần. Đó chính là sự xuất hiện của các nhân thần.
    Nếu như các thiên thần, nhiên thần được tạo nên hoàn toàn do trí tưởng tượng phong phú của con người thì các nhân thần lại là những nhân vật có thật, từng tồn tại trong quá trình phát triển lịch sử của cộng đồng. Sự thần thánh hóa những con người có thực dường như đã gia tăng thêm sức hẫp dẫn, thuyết phục của mỗi loại hình tôn giáo tín ngưỡng. Có mấy kiểu dạng nhân thần phổ biến:
    +Một là những người đứng đầu sáng lập các tôn giáo tín ngưỡng với một hệ giáo lý triết thuyết riêng, được cộng đồng suy tôn ở vị trí giáo chủ, như phật Thích Ca hay chúa Giê Su… là những ví dụ điển hình.
    +Hai là những nhân vật có công với nước, với dân, hay những kỳ nhân lúc sinh thời đức độ cứu đời, sau khi mất được cộng đồng tôn vinh, thần thánh hóa làm đối tượng thờ phụng.
    +Ba là theo quan niệm tín ngưỡng dân gian ở nhiều nơi, nhân thần cũng có thể đơn giản là một người bình thường, thậm chí là người ăn mày, kẻ trộm, kẻ cướp… Họ chết (hoặc bị đánh chết) vào đúng… giờ thiêng nên sau khi mất “hiển linh”, tương tác với cuộc sống cộng đồng. Tỉ dụ hiện tượng người chết “bất đắc kỳ tử” được mối đùn xông lên thành ngôi mộ là một trong những biểu hiện linh thiêng ở tâm thức dân gian người Việt. Việc tôn thờ như vậy biểu hiện nỗi ám ảnh, sợ hãi các thế lực siêu hình nói chung, bao gồm cả các thế lực hắc ám.
    Tóm lại, dù ở kiểu dạng nào, nhân thần ít nhiều đều mang tính hiện thực cao hơn các nhiên thần và thiên thần. Khi xây dựng nên một đối tượng nhân thần để thờ phụng, thông thường những người thực hành tín ngưỡng bao giờ cũng căn cứ trên những yếu tố có thật để cố gắng tô vẽ, thêu dệt thành những huyền thoại đẹp đẽ. Chính điều đó ngày càng làm tăng thêm tính thuyết phục của loại hình tín ngưỡng tôn giáo, ngõ hầu thu hút thêm số đông các đệ tử. Đây là hiện tượng phổ biến thấy có ở nhiều hình thức tôn giáo trên thế giới.
    Khác với những tôn giáo lớn như đạo Phật, đạo Thiên chúa, đạo Giáo.., tín ngưỡng Tứ phủ không có giới tu sĩ, tăng lữ chuyên nghề hành đạo. Ở đây không có vai trò giáo chủ kiểu như Phật Thích Ca, Chúa Giê Su, Lão Tử… Bởi vậy, tín ngưỡng Tứ phủ không có triết thuyết riêng thể hiện qua hệ thống giáo lý kinh kệ. Hình thành từ đời sống dân dã, mọi nội dung tín ngưỡng đều chỉ xoay quanh những hình thức tôn vinh, ngợi ca các nhân vật trên điện thần, thể hiện qua hệ thống các bản Văn chầu.
    Trong tín ngưỡng Tứ phủ, dễ thấy sự dung hợp nhiều yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau, được xem như một hiện tượng điển hình. Trong bản Văn công đồng (được xem là cổ xưa, mẫu mực nhất) mở đầu mọi cuộc hành lễ của tín ngưỡng Tứ phủ, sẽ thấy các ngôi vị được tôn vinh lần lượt xếp từ trên xuống dưới. Ngôi cao nhất là Phật Thích Ca, chư Phật mười phương, Phật Bà Quan Âm, các Bồ tát, Hộ Pháp, vua Đế Thích- là những vai vế của đạo Phật. Thứ đến là các nhân vật của đạo Giáo như vua Ngọc Hoàng, Ngũ nhạc Thần vương ở dương phủ, Thập điện Minh Vương ở địa phủ, Bát hải Long vương ở thoải phủ, Tam nguyên, Tam phẩm, Tam quan, Nam Tào, Bắc Đẩu, Thập nhị Bát tú… Sau đó mới đến các vị thánh biểu trưng riêng của tín ngưỡng Tứ Phủ.
    Như thế, xem ra ngay từ khi mới hình thành, tín ngưỡng Tứ phủ đã tự đặt mình trong một vị thế chấp nhận sự hòa hợp các tín ngưỡng tôn giáo ngoại nhập. Nhưng sự “khiêm nhường” đó không có nghĩa một con số cộng. Ở đây, hệ thống điện thần các tôn giáo lớn chỉ được nhắc đến lướt qua như một mô hình “thiên đình” tưởng tượng trong sự chấp nhận dung hợp. Còn trên thực tế, chính thần Tứ phủ là ngôi vị các Thánh Mẫu, Quan lớn, Chầu bà, Ông hoàng và các Cô, các Cậu, được sắp xếp theo thứ tự trên -dưới, trước -sau với quan niệm Tứ phủ công đồng. Chỉ các ngôi vị đó mới được “thỉnh đồng”- xuất hiện trực tiếp trong các cuộc hành lễ điển hình, như những cuộc hầu đồng, lễ chầu thờ, hát thi. Trong đó, ngôi vị Thánh Mẫu được xem như đối tượng cao nhất của điện thần.
    Ở đây, xét về bối cảnh lịch sử, sự chấp nhận dung hợp của điện thần Tứ phủ cũng có thể coi như sự “biết mình biết người”. Bởi vào thời điểm tín ngưỡng Tứ phủ hình thành ở khoảng thế kỷ 16, lúc đó Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo đã chiếm một vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt. Với phương pháp dung hợp như trên, tín ngưỡng Tứ phủ một mặt không bị rơi vào thế đối đầu với các tôn giáo lớn, nhưng một mặt lại không bị hòa tan, vẫn hình thành cho mình một hệ thống điện thần riêng. Hệ thống đó mang tính bản địa cao với vai trò nổi trội của các nhân thần.
    Trong tín ngưỡng Tứ phủ, sẽ thấy các ngôi vị nhân thần được minh xác với nguồn gốc quê quán cụ thể, được thờ ở những hệ thống đền phủ riêng. Đại đa số các nhân thần đều gắn liền với những chiến công hiển hách bảo vệ cộng đồng, khai hoang lập ấp. Điển hình nhất là đức Thánh Trần (tức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn) được thờ ở ngôi vị vua cha trong điện thần Tứ phủ[1]. Bên cạnh ngài, còn có Chầu Bát Nàn được thờ ở Thái Bình- tương truyền là nữ tướng của Hai Bà Trưng; Chầu Mười ở Đồng Mỏ- Chi Lăng (Lạng Sơn) vốn là nữ tướng người Tày có công giúp vua Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược; Quan Đệ Ngũ Tuần Chanh đánh giặc Triệu Đà dưới thời Thục An Dương Vương; Ông hoàng Đôi vốn là quan lớn Triệu Tường ở Thanh Hóa giúp vua Lê dẹp loạn nhà Mạc; Ông Hoàng Lục là tướng Trần Lựu đời Lê Thái Tổ; Ông Hoàng Bảy Bảo Hà (Lào Cai) có công giúp vua Lê dẹp giặc và giúp dân khai khẩn đất hoang; hay Ông Hoàng Mười cũng là tướng nhà Lê, quê ở Nghệ An..v.v..
    [​IMG]
    Cung văn lão thành Đào Thị Sại (Nam Định)
    Trong các nhân vật nữ thần được phụng thờ, nổi bật nhất phải kể đến Thánh Mẫu Liễu Hạnh, chuyện kể rằng bà quê quán ở Nam Định, sinh ra trong một gia đình họ Lê, khi sống đức độ tiết hạnh, khi mất linh ứng, được nhân dân phụng thờ. Tương truyền bà còn giáng trần tới ba lần, hiển linh ở những nơi khác nhau phù trợ dân sinh. Ngày nay đền thờ chính Thánh Mẫu ở Phủ Nấp, Phủ Dày (Nam Định), Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Đền Sòng, Đền Phố Cát (Thanh Hóa). Bên cạnh bà, còn có các nữ thần khác như Chầu Năm quê quán ở Suối Lân (Lạng Sơn) tương truyền là công chúa nhà Lý đi tu trên miền rừng, Chầu Chín quê ở Bỉm Sơn (Thanh Hóa), Chầu Bé quê ở Bắc Lệ -Tân Thành -Hữu Lũng (Lạng Sơn)…
    Trong các nhân thần Tứ phủ, Cô Đôi Cam Đường có lẽ là trường hợp duy nhất thể hiện sự hiển linh của một tiểu thương. Nữ thần nguyên là một cô gái Kinh Bắc quê ở Đình Bảng -Bắc Ninh làm nghề buôn chuyến lên vùng Cam Đường (Lào Cai), không may bị bọn cướp sát hại trên đường giao thương. Sau khi mất, bà hiển linh giúp đỡ người miền xuôi miền ngược qua đường nên được lập đền thờ ở Cam Đường. Đây rất có thể là nhân vật được phối thờ do tính chất nghề nghiệp tiểu thương của nữ thần, gần gũi với các con nhang đệ tử làm nghề buôn bán- vốn là một lực lượng đông đảo của tín ngưỡng Tứ phủ(?).
    Bên cạnh những kỳ tích hiển hách lớn lao, hình tượng các nhân thần trong Tứ phủ cũng được xây dựng thật gần gũi với cuộc sống trần gian. Nhiều ngài cũng có các sở thích đời thường như uống rượu, ăn chơi thơ phú phong lưu, hút thuốc phiện, hay những buồn vui tình đời dung dị khác… Cũng có thể coi đó là những tấm gương phản chiếu phần nào cuộc sống thực tại của con người. Do vậy, vai trò của các nhân thần Tứ phủ đã tạo nên sức hấp dẫn lớn. Sự xuất hiện các ngôi vị một mặt làm gia tăng “tính hiện thực” của đời sống tâm linh, đồng thời xác lập tính bản địa vững chắc của loại hình, như một thế đối trọng với các tôn giáo, tín ngưỡng du nhập khác.
    [​IMG]Một đồng cựu trong giá Chầu Nămở đền Sòng (Bỉm Sơn- Thanh Hóa)
     
    Bài viết mới

    Bình Luận Bằng Facebook

Chia sẻ trang này