Âm nhạc dân ca quan họ (p4) [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]E - Những tính chất và đặc điểm của âm nhạc Quan họ[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Nhịp độ (mouvement) của dân ca Quan họ nói chung ở trạng thái vừa phải, đôi khi ở trạng thái hơi chậm. Phần lớn bài bản dân ca Quan họ cổ ở trong âm vực chủ yếu là một quãng 8. Nghệ nhân Quan họ như ít chú ý đến sự thay đổi về cường độ của những bài, những đoạn Quan họ. Trong một canh hát, mọi bài hát Quan họ do một đôi nghệ nhân ca hát thường được diễn đạt bằng một cường độ âm thanh không thay đổi. Một đôi liền anh hoặc liền chị muốn tiếng hát của mình có chất lượng cao chẳng những đòi hỏi phải cùng thuộc những bài Quan họ nhất định, mà còn phải có cùng một giọng hát hoà hợp, cùng một âm sắc (timbre). Giọng (ton) của những liền anh và những liền chị khi ca hát đối đáp thường luôn cách nhau một quãng 5 hay quảng 4 mà trong dân gian thường phân biệt bằng khái niệm "hơi nam" và "hơi nữ".[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Âm nhạc của dân ca Quan họ không phải là cái gì hoàn toàn khác đối với mọi nền âm nhạc khác, mọi nền dân ca khác. Mỗi tính chất và đặc điểm của âm nhạc dân ca Quan họ, nói cho đúng, chúng ta đều có thể thấy hoặc nhiều hoặc ít, hoặc đậm, hoặc nhạt, ở loại dân ca này hoặc loại dân ca kia. Sự khác nhau ở đây là thuộc về mức độ, về sắc thái. người Quan họ xưa kia đã biết huy động, vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật có sức biểu hiện cao, có sức hấp dẫn mạnh (mà từng thủ pháp nghệ thuật ấy thường đã được vận dụng lẻ tẻ trong một vài thứ dân ca khác), tổng hợp chúng, phối hợp chúng một cách khá hợp lý trong mỗi tác phẩm âm nhạc Quan họ. "Có thể nói, Quan họ là đỉnh cao của nền dân ca Việt Nam".[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Tính chất tình cảm, tâm trạng của người Quan họ không chỉ phản ánh qua từng dạng điệu thức của dân ca mà nó phản ánh qua nhiều yế tố nghệ thuật tổng hợp như: cách tiến hành giai điệu (những quãng nhảy xa, nhảy gần, những làn sóng lớn, sóng nhỏ...), sự diễn đạt âm thanh (staccato, legato, non legato), tốc độ, sự nhấn mạnh hoặc không nhấn mạnh những phách đầu nhịp, thủ pháp chuyển điệu cùng những thủ pháp sáng tạo khác. Do đó, đặc điểm của âm nhạc Quan họ cũng được biểu hiện qua nhiều yếu tố nghệ thuật, trong đó điệu thức cùng cách tiến hành giai điệu là yếu tố vô cùng quan trọng.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Trong dân ca Quan họ có đủ năm dạng điệu thức năm bậc tự nhiên tương đương với năm kiểu điệu thức Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ trong âm nhạc Trung Quốc. Ta gọi đó là những điệu thức năm bậc kiểu I, kiểu II, kiểu III, kiểu IV, kiểu V:[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Kiểu I : Do; Re; Mi; Sol; La; Do.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Kiểu II : Do; Re; Fa; Sol; Si(b); Do.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Kiểu III : Do; Mi(b); Fa; La(b); Si(b); Do.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Kiểu IV : Do; Re; Fa; Sol; La; Do.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Kiểu V : Do; Mi(b); Fa; Sol; Si(b); Do.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Những điệu thức kiểu V, kiểu IV, kiểu III được vận dụng rất phổ biến trong dân ca Quan họ.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]2. Với âm nhạc năm bậc (thay cho thuật ngữ "năm cung" , "ngũ cung"). Quan họ ít khi có những bước nhảy xa, những bước đi trùng (đồng âm), nó thường được trang úc bằng những âm liền vậc. Chúng ta đều thấy rõ điều này qua những bài bản Quan họ quen biết.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Trong dân ca Quan họ có đầy những nét nhạc được cấu tạo bởi những chùm âm liền bậc. Ðặc điểm này chủ yếu là phản ánh tâm tư yêu mến, nhớ thương, tính chất mềm mại và uyển chuyển.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]3. Nhiều nghệ nhân Quan họ đã khéo sắp xếp, nhào nặn, chế biến một số nét nhạc của nhiều bài Quan họ khác nhau để tạo thành những bài Quan họ mới. Thủ pháp này đã tạo cho kho tàng dân ca Quan họ có một phong cách chung về âm nhạc, song mặt khác nó cũng làm cho một số bài Quan họ bị giảm vẻ độc đáo.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]4. Trong một số bài Quan họ, tác giả dân gian đã biết tiết kiệm âm, dành dụm một âm trong thanh âm ở âm khu thấp hoặc dành dụm một âm lạ ngoài điệu thức để chỉ vận dụng nó một đôi lần thường ở cuối khúc hát, tạo nên một sự lạ tai thú vị đối với người nghe.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Chẳng những biết tiết kiệm âm, những "liền anh, liền chị" Quan họ còn biết tiết kiệm khu vực của âm (âm khu), đó là cách dùng âm khu cho đắt. Cách sử dụng tiết kiệm âm khu trong dân ca Quan họ thường được thực hiện như sau: phần đầu của khúc là phần giai điệu tiến hành ở âm khu cao, phần cuối của khúc là phần giai điệu ở âm khu thấp.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, nghệ nhân Quan họ đã lần lượt sử dụng hai âm khu tương phản với hai dạng điệu thức năm bậc khác nhau, hoặc cùng chung một dạng điệu thức những khác giọng (tonalité) tức là khác âm chủ, và do đó ở cuối khúc xuất hiện một đôi âm mới không có mặt ở điệu thức cũ, thí dụ bài Ra ngõ mà trông, bài Tay nâng cơi đựng giầu, bài Ông tơ sao khéo đa đoan.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]5. Ðể cho câu cú được cân phương,hoặc để nhấn mạnh một ý chính của nội dung tác phẩm, những tác giả dân ca Quan họ đã dùng đến thủ pháp "nhắc lại nguyên vẹn cả lời ca và nhạc điệu" một bộ phận của khúc ca. Cũng như trong hát Chèo, trong hát Ca - trù, và trong nhiều loại dân ca của người Việt ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, hình thức nhắc lại điển hình trong dân ca Quan họ là hình thức hát nhắc lại bốn tiếng cuối của câu lục trong cặp lời ca lục - bát.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Hình thức "nhắc lại nguyên vẹn lời và nhạc" có thể được thực hiện ở ngày đầu khúc ca, đầu bài hát hoặc có thể ở cuối khúc ca và đó là trường hợp tương đối phổ biến.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]6. Hiện tượng xuất hiện "âm cảm" trong dân ca Quan họ là một hiện tượng đặc biệt, góp phần tạo nên vẻ độc đáo và sức hấp dẫn của âm nhạc Quan họ.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Ðối với những bài Quan họ ở điệu thức năm bậc kiểu V, một điệu thức rất phổ biến trong dân ca Quan họ, thì âm quãng 4 tính từ âm bậc 1 của điệu thức có một vị trí hết sức quan trọng. Do nhiều khi nó gắn bó với "âm cảm" (âm cảm ở đây là âm quãng 3 trưởng, chứ không phải âm quãng 7 tính từ âm bậc 1) cho nên sức hút của nó còm mạnh mẽ hơn âm bậc 1, nó còn mang nhiều tính chất ổn định, tính chất của "âm chủ" hơn là âm bậc 1.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Phần lớn những bài Quan họ nằm trong trường hợp chuyển điệu - thức, hay nói như Nguyễn Viêm là "kết hợp điệu thức", nói như Nguyễn Ðình Tấn là "ghép các kiểu ngũ cung", hoặc nói như Trần Văn Khê, Phạm Duy là "chuyển hệ".[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]ở đây sẽ không đề cập đến hiện tượng chuyển từ một điệu thức này tới một điệu thức khác mà không xuất hiện âm mới và vắng mặt âm cũ, chẳng hạn chuyển từ điệu thức Do kiểu I tới điệu thức Ré kiểu II hay điệu thức Mi kiểu III... (tức là hiện tượng giao thoa điệu thức).[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Do[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Ré[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Mi[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Sol[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]La[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Do[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Ré[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Mi[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Sol[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]La[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Do[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Ré[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Mi[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Sol[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]La[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Do[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Ré[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Mi[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Sol[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]La[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Do[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Ré[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Mi[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Sol[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]La[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Do[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Ré[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Mi[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Sol[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]La[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Hiện tượng chuyển - điệu - thức - năm - bậc với sự xuất hiện một hoặc vài âm mang tên mới (đi đôi với sự vắng mặt một vài âm cũ) đã phản ánh cái tâm trạng, tình cảm tinh tế của người Quan họ, trong nhiều trường hợp nó đã phá được cái âm hưởng đơn điệu và đem tới người thưởng thức dân ca Quan họ một cảm giác thú vị luôn thay đổi.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]ở dân ca Quan họ có hay hình thức chuyển điệu, đó là chuyển điệu cách biệt và chuyển điệu nối liền. Chuyển điệu cách biệt là hiện tượng mỗi câu nhạc, mỗi đoạn nhạc riêng biệt thuộc về mỗi điệu thức. Nó được ứng dụng phần lớn trong những bài Quan họ cấu tạo theo kiểu "lắp ghép" như những bài Năm cung, Mười cung... Nó cũng được ứng dụng trong những bài Quan họ mà bố cục được phân chia thành những bộ phận tách bạch như Ngồi tựa mạn thuyền, Tay nâng cái cơi đựng giầu....[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Chuyển điệu nối liền là hiện tượng nhiều điệu thức năm bậc nối liền, quyện chặt trong một nét nhạc mà người ta thường khó có thể cắt rời thành nhiều mảnh chủ đề. Hình thức chuyển điệu nối liền thấy ở nhiều bài Quan họ như Dưới giời mấy kẻ biết ra, Nam nhi, Người ngoan, Lênh đênh ba - bốn chiếc thuyền kề...[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]8. Những âm có trường độ tương đối dài trong dân ca Quan họ thường được nghệ nhân chia nhỏ tiết tấu mà không ngân dài.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]9. Ðiều có ý nghĩa bao trùm lên tất cả là nghệ nhân Quan họ rất chú ý tới nghệ thuật gây tính chất tương phản giữa các bộ phận của bài ca. Ví như: tiếp sau âm khu cao là âm khu thấp, sau dạng ngân Bỉ tiết tấu tự do là dạng hát của phần Thân bài có tiết tấu đều đặng, có nhịp phách rõ rệt; sau điệu thức này là một điệu thức khác .v.v...[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]F - Phát âm Quan họ[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Mỗi thể loại ca hát (Tuồng, Chèo, Cải Lương, Ca Huế...) thường đều có một cách rung giọng riêng. Khác nhiều với phương pháp cộng minh trong ca mới, những liền anh, liền chị Quan họ dùng cách rung "nảy hạt" hay "nhả hột". Theo Hô-li-niơ và Giéc-len-gli (hai nghệ sĩ Mỹ khi sang thăm Việt Nam, nghe hát Quan họ) thì đây là một cách ngân rất quý báu và độc đáo, đặc biệt đối với phương tây.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Với cách ngân "nảy hạt", các âm tiết kéo dài đã bị ngắt ra thành nhiều phần nhỏ (đồng âm), âm thanh được vo thành những hạt tròn. Người hát "nảy hạt" có cảm giác như hơi bị gằn lại, bị kìm lại trước khi bật ra hạt âm thanh. Tuỳ theo cảm hứng và thị hiếu của người hát, những hạt này ra có thể lớn hay nhỏ về cường độ có thể tạo ra những tiếng có khoảng cách gần hay xa về trường độ có thể tạo ra thành từng cụm ít hay nhiều tiếng; và cuối cùng, có thể được hát nảy hoặc ở thời gian đầu của âm, hoặc ở thời gian cuối của âm, hoặc nảy suốt trong toàn bộ quá trình của âm.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Hạt nảy không nhất thiết phải ở đầu phách, nó có thể ở bất cứ vị trí nào. Trường hợp hát nảy hạt phần lớn xuất phát từ cảm hứng của từng người, từ sự ứng tác, cho nên khi hát tập thể, những hạt âm phát ra khó có thể đồng đều.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Nếu so sánh với lối ca mới thì phương pháp hát nảy hạt trong Quan họ có thể ví như kiểu "gân bong", còn phương pháp cộng minh của ca mới có thể ví như kiểu "gân chìm" trong nghệ thuật kéo nhị. Trong hát Chèo, người ta cũng dùng phương pháp hát nảy hạt. Nhìn chung, hạt nảy trong Chèo thường lớn hơn hạt nảy trong Quan họ. ở điệu hát Sử, Sử dầu trong Chèo thì hạt nảy rất to, gây nên cảm giác buồn bã, nghẹn ngào như khóc. ở Chèo, hạt nảy lẩn vào trong; ở Quan họ, hạt nảy từ cuống họng.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Hầu như cách ngân "Nảy hạt" của người Quan họ, với những hạt nhỏ, đã tăng cường được tính chất trữ tình, duyên dáng của giai điệu và lời ca Quan họ, tăng cường được hiệu lực thể hiện nội dung tình cảm thắm thiết giữa những người Quan họ. Người Quan họ khi hát thường mở khẩu hình nhỏ, có lẽ như vậy vừa thể hiện được vẻ duyên dáng của người hát, lại vừa (đây là điều chủ yếu) có khả năng giữ hơi để tham gia canh hát có khi kéo dài tới ba ngaỳ đêm.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Nhiều người không thể nào học được cách hát nảy hạt. Ngay những người có khả năng hát nảy hạt, muốn hát được nảy cũng cần phải có một vài điều kiện:[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]a) Hát giọng thật (giọng ngoài) chứ không hát giọng giả (giọng trong).[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]b) Hát ở âm khu trung, tầm cỡ thích hợp với giọng người hát.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]c) Hát ở nhịp độ chậm rãi, khoan thai, âm nảy hạt có trường độ ngắn thì những hạt nảy không rõ hiệu quả.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]G - Dân ca Quan họ với sự giao lưu nghệ thuật[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Bất cứ một nền dân ca, một nền nghệ thuật của địa phương nào có sức sống đều không thể chỉ có sử dụng phát triển tự thân, không thể không nằm trong mối giao lưu văn hoá với nhiều địa phương khác. Dân ca Quan họ cũng như vậy. Một mặt người đất Quan họ đi xa về gần, đem âm điệu dân ca quê hương mình trao đổi với người dân vùng khác, đồng thời họ cũng lại tiếp thu lời ca tiếng hát ở những vùng khác nhập vào vốn dân ca Quan họ của mình. Mặt khác, nhân dân nhiều vùng khác - khắp từ Nam tới Bắc - qua những cuộc di cư tìm đất sống, qua những chuyến giao dịch buôn bán..., đã đem những bài hát từ muôn nơi thâm nhập vào dân ca Quan họ.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Các "liền anh, liền chị" Quan họ đã không ngừng sáng tác nên những giọng (điệu) Quan họ mới, mang những giọng này để hát thi, hát đối trong những ngày vui thường xuyên được tổ chức hàng năm xuân thu nhị kỳ, nhằm giành phần thắng cuối cùng trước "đối ơhương". Người dự thi hát Quan họ, muốn giành phần thắng, đặc biệt cần phải biết nhiều giọng (điệu). Sáng tác giọng không đủ, không kịp (so với yêu cầu của mình), các "liền anh, liền chị" đã tiếp thu nhiều luồng nghệ thuật khác, nhiều nền dân ca khác để làm giầu thêm vốn giọng Quan họ (tất nhiên họ cũng không quên làm giầu thêm cả vốn "câu" tức lời ca). Ðây là lý do chính khiến số lượng giọng (điệu) Quan họ tăng lên nhanh chóng và ngày nay đã trở nên rất phong phú.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Hát để bản thân mình thưởng thức, hát để bạn nghệ thuật thưởng thức, lời ca điệu hát Quan họ cần phải được nâng cao không ngừng về mặt thẩm mỹ. Ðây là lý do chính quyết định chất lượng của lời ca điệu hát Quan họ.[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Khác với dân ca nhiều vùng mang nặng những yếu tố khép kín, dân ca Quan họ đã tiếp thu nghệ thuật của Tuồng; Chèo; Cải Lương; của Chầu văn; Ca trù của dân ca nhiều vùng khắp Bắc Trung Nam; của cả tác phẩm do nhạc sĩ đương thời sáng tác. ở những mức độ và sắc thái khác nhau, các "liền anh, liền chị" Quan họ đã dùng tới nhiều phương thức tiếp thu - sáng tạo:[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]1. Tiếp thu gần như nguyên vẹn hoặc Tiếp thu có biến hoá chút ít âm điệu của bài bản ngoài Quan họ. Ðó là trường hợp của những bài Quan họ Trăm khúc sông đổ dồn một bến (dựa theo âm điệu Lý Giao duyên, dân ca Nam Bộ, Lý Hành vân, dân ca Trị Thiên) Một trăm thứ hoa (dựa theo bài Văn mười hai cô trong Chầu văn), Tay tiên chuốc chén rượu đào và Nhất quế nhị lan (dựa theo giọng Ru, giọng hãm trong Ca trù) .v.v...[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]2. Cải biên, thay đổi âm điệu bài bản ngoài Quan họ, cốt cách và kết cấu của bài ngoài Quan họ vẫn được bảo lưu. Ðó là trường hợp của những bài Quan họ Mười nhớ (dựa theo âm điệu Hô-quảng), Khi tương phùng khi hội ngộ (dựa theo âm điệu Tứ đại cảnh), Xe chỉ luồn kim (dựa theo âm điệu Lý tiểu khúc), Chia rẽ đôi nơi (dựa theo âm điệu dân ca Cò Lả), Ca đàn (dựa theo bài Thu trên đào Kinh Châu, sáng tác ca khúc của Lê Thương)...[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]3. Chỉ dùng một nét nhạc hay một đoạn nhạc của bài bản ngoài Quan họ, phát triển thành một bài Quan họ nhiều khi thay đổi cả kết cấu bài bản ngoài Quan họ bằng cách thêm phần ngâm Bỉ (mở đầu) hoặc phần Ðổ (kết thúc) cùng với hiện tượng chuyển điệu. Ðó là trường hợp của những bài Quan họ Gọi đò (tiếp thu nét nhạc Tuồng), Thiết tha (tiếp thu nét nhạc Chèo)...[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]4. Âm nhạc bài bản bên ngoài được thay đổi hẳn, như không còn dấu vết trong bài Quan họ. ở đây bài bản bên ngoài có thể chỉ được coi như một nguồn cảm hứng để những "liền anh, liền chị" phóng tay sáng tạo nên những bài Quan họ với âm nhạc độc đáo, riêng biệt của nó. Ðó là trường hợp của những bài Quan họ Luyện sơn trang (bắt nguồn cảm ứng từ Chầu Văn), Lý con sáo, Lý cây đa, Lý Thiên Thai (bắt nguồn cảm hứng từ dân ca Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ)...[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]5. Ngoài ra, các "liền anh, liền chị" Quan họ còn dùng cách mô phỏng giọng nói giọng hát của nhân dân một vùng để sáng tạo giai điệu âm nhạc, như đối với trường hợp mô phỏng giọng Huế...[/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman,Times][SIZE=+1]Cũng như bản thân dân ca Quan họ, những phương thức tiếp thu âm nhạc và lời ca ngoài Quan họ của các "liền anh, liền chị" xưa kia thật là phong phú. Trong công việc sáng tạo nghệ thuật ngày nay, chúng ta vẫn có thể và vẫn cần thiết đi sâu học tập cách làm của cha ông chúng ta. Bơi vì tất cả những phương thức này đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa nghệ thuật và ý nghĩa thời sự của nó.[/SIZE][/FONT]
Tôi thì không biết gì về nghệ thuật cả! Nói thật là như thế. nhưng nghe dân ca với một niềm cảm nhận hết sức bản năng thôi. Buổi trưa ở nhà quê, nắng tháng năm, tháng sau nóng om cả nước ao, chết toi cả cá cua ngoài ruộng thì tôi mang cái võng ra vườn. Nằm dưới tán lá mát xanh, tiếng ve, tiếng chim hót, tiếng chống, phách của chéo, tuồng, quan họ, cải lương... và mùi ngai ngái của đất vườn bốc lên sau cơn mưa mùa hạ... Nhắm mắt lại giữa cái không gian ấy thấy lòng mình bình an kì lạ. Cám ơn bạn vì đã cung cấp một bài viết giàu tính tư liệu, nghin cứu.