Có cơ duyên với việc tu bổ, tôn tạo và bảo tồn các kiến trúc truyền thống, đặc biệt là các công trình tôn giáo - tín ngưỡng; tôi xin phép được lập chủ đề này để chia sẻ thông tin mà tôi tìm hiểu hoặc sưu tầm được từ nhiều nguồn, để chúng ta có thể trao đổi thêm với nhau; âu cũng là một cách để tự trau dồi kiến thức của bản thân. NGUYÊN TẮC BẢO TỒN CÁC KIẾN TRÚC LỊCH SỬ BẰNG GỖ (Nguyên tắc này đã được Hội đồng quốc tế về di tích và di chỉ - ICOMOS thông qua tại Đại Hội đồng lần thứ 12 ở Mêxico, tháng 10/1999) Mục tiêu của văn kiện này là xác định những nguyên tắc và thực hành cơ bản và có thể áp dụng được trên toàn cầu đối với việc bảo vệ và bảo tồn các kiến trúc lịch sử bằng gỗ với lòng tôn trọng đúng mức ý nghĩa văn hoá của các kiến trúc đó. Kiến trúc lịch sử bằng gỗ đề cập ở đây là tất cả các loại toà sở hoặc công trình xây dựng hoàn toàn hay từng phần bằng gỗ mà có ý nghĩa văn hoá hoặc là bộ phận của một khu vực lịch sử. Vì mục đích bảo tồn các kiến trúc, các nguyên tắc này: Thừa nhận tầm quan trọng của các kiến trúc bằng gỗ ở mọi thời kỳ như là bộ phận của di sản văn hoá thế giới; Lưu tâm với tính đa dạng lớn lao của các kiến trúc bằng gỗ; Lưu tâm với các loại và chất lượng gỗ khác nhau dùng để xâyd ựng các kiến trúc đó; Thừa nhận tính dễ tổn thương của các kiến trúc xây cất hoàn toàn hoặc từng phần bằng gỗ, do sự mục nát và thoái hoá của vật liệu trong những điều kiện môi trường và khí hậu thay đổi, do dao động của độ ẩm, do ánh sáng, do nấm và côn trùng tấn công, do hao mòn, do hoả hoạn và các tai hoạ khác. Thừa nhận tình trạng hiếm hoi ngày càng tăng của các kiến trúc lịch sử bằng gỗ là do tính dễ tổn thương của các kiến trúc đó, sự lạm dụng chúng và sự hẫng hụt về kỹ năng và hiểu biết về kỹ thuật thiết kế và xây dựng truyền thống; Lưu tâm bởi vẻ đa dạng của các biện pháp và các xử lý cần có, đối với việc bảo tồn và bảo toàn các tài nguyên lịch sử đó; Ghi nhận các nguyên tắc của hiến chương Venice và hiến chương Bura cũng như học thuyết có liên quan của UNESSCO và ICOMOS, và tìm cách ứng dụng các nguyên tắc tổng quát vào việc bảo vệ và bảo tồn kiến trúc lịch sử bằng gỗ; và đề xuất những khuyến nghị như sau; Kiểm tra, Lập bản kê, Lập hồ sơ Trước khi có can thiệp phải được ghi chép cẩn thận tình trạng của kiến trúc và thành phần, cũng như tất cả các vật liệu dùng để xử lý, đúng như điều 16 Hiến chương Venice và nguyên tắc của ICOMOS về lập Hồ sơ Di tích, nhóm Công trình xây dựng và Di chỉ. Mọi tư liệu thích đáng, bao gồm các mẫu tiêu biểu của những vật liệu thừa hoặc các bộ phận tách ra từ kiến trúc, và thông tin các kỹ thuật và công nghệ truyền thống có liên quan phải được thu thập, liệt kê, đặt ở nơi an toàn và dễ tiếp xúc khi cần. Hồ sơ cũng phải bao gồm những lý do cụ thể khi chọn vật liệu và phương pháp trong việc bảo tồn. Trước khi có mọi can thiệp phải có một chẩn đoán toàn diện và chính xác về điều kiện và nguyên nhân mục nát và khiếm khuyết của kết cấu gỗ. Việc chẩn đoán phải dựa trên cơ sở chứng cứ xác thực, kiểm tra và phân tích tình trạng thực tế và nếu cần, những số đo cụ thể và những phương pháp trắc nghiệm không huỷ hoại. Điều này không có nghĩa là ngăn cản những can thiệp nhỏ cần thiết và những biện pháp khẩn cấp. Giám sát và bảo quản Một chiến lược đồng bộ về giám sát và bảo quản đều đặn là mấu chốt đối với việc bảo vệ các kiến trúc lịch sử bằng gỗ và ý nghĩa văn hoá của các kiến trúc đó. Can thiệp Mục tiêu đầu tiên của bảo tồn và bảo toàn là duy trì tính xác thực của lịch sử và tính toàn vẹn di sản văn hoá. Do đó mỗi cuộc can thiệp phải dựa trên những nghiên cứu và đánh giá thích đáng. Các vấn đề rắc rối cần phải được giải quyết theo những điều kiện và nhu cầu thích hợp với sự tôn trọng đúng mức có giá trị thẩm mỹ và lịch sử và tính toàn vẹn hình thể của kiến trúc hoặc di chỉ lịch sử. Mọi can thiệp được đề xuất muốn được ưu tiên phải: Sử dụng các phương pháp và kỹ thuật truyền thống; Có thể chuyển hồi được, nếu như có thể được về mặt kỹ thuật; hoặc Chí ít là không gây trở ngại hoặc cản trở công việc bảo tồn sau này khi nào việc đó trở nên cần thiết; và Không cản trở khả năng tiếp xúc sau này với các chứng tích hỗn nhập vào kiến trúc. Can thiệp tối thiểu vào kết cấu một kiến trúc lịch sử bằng gỗ là điều lý tưởng. Trong một số tình thế nhất định, việc can thiệp tối thiểu cũng có thể có nghĩa là việc bảo tồn và bảo toàn kiến trúc đó đòi hỏi phải tháo gỡ toàn bộ hoặc từng phần để rồi sau đó lắp ráp lại, mục đích là có thể tu sửa được các kết cấu gỗ. Trong các cuộc can thiệp, kiến trúc lịch sử phải được coi như là một tổng thể; mọi vật liệu, kể cả các bộ phận khung sườn, các bức đố, vách mái, sàn, cừa dài và cửa sổ v.v... phải được lưu ý như nhau. Trên nguyên tắc các vật liệu đang tồn tại phỉa được giữ lại càng nhiều càng tốt. Việc bảo vệ cũng phải bao gồm cả các thứ trát phủ bề mặt ví như thạch cao, sơn, vữa, giấy dán tường v.v... Nếu cần phải đổi mới hoặc thay thế những thứ đó thì, nếu có thể, cần sao lại kỹ thuật, kết cấu vật liệu gỗ. Mục đích của trùng tu là bảo tồn kiến trúc lịch sử và chức năng chịu tải của kiến trúc đó và nêu bật giá trị văn hoá của nó bằng cách làm rõ ràng tính toàn vẹn lịch sử, tình trạng và thiết kế ban đầu trong giới hạn bằng chứng vật liệu lịch sử còn tồn tại, như đã chỉ ra ở Điều 1 đến 13 của Hiến chương Venice. Các bộ phận tháo dỡ và những thành phần khác của kiến trúc phải được liệt kê, và các mẫu vật đặc trưng phải được thường xuyên lưu giữ trong kho như là một bộ phận của hồ sơ. Tu sửa và thay thế Trong việc tu sửa kiến trúc lịch sử, có thể dùng các loại gỗ kiến trúc để thay thế song phải tôn trọng đúng mức các giá trị lịch sử và thẩm mỹ hiện hữu, và khi nào việc làm đó để đáp ứng nhu cầu cần phải thay thế những bộ phận hoặc những mảng bị mục nát hoặc bị hư hỏng hoặc là do yêu cầu trùng tu. Những bộ phận hay mảng mới phải cùng một loại gỗ và cùng chất lượng, hoặc nếu cần thiết, có chất lượng gỗ tốt hơn so với gỗ được thay thế. Và nếu có thể, gỗ thay thế phải có những đặc trưng vật lý khác của gỗ thay thế phải thích hợp với kiến trúc hiện tồn. Kỹ thuật thủ công và phương thức xây dựng, kể cả công cụ và máy móc sử dụng, phải tương hợp với những thứ được dùng lúc ban đầu. Đinh và các phụ liệu khác phải sao chép đúng các vật liệu gốc. Để thay thế một mảng nào đó bị mục nạt, cần phải sử dụng cách lắp ráp truyền thống để chắp nối mảng mới vào mảng cũ, nếu thao tác này có thể làm được và thích hợp với đặc trưng của kiến trúc được tu sửa. Phải làm thế nào để các mảng hoặc bộ phận mới phân biệt được với các bộ phận các mảng đang tồn tại. Sao chép lại độ mòn hoặc biến dạng của các bộ phận hoặc mảng được gỡ ra không phải là điều đáng mong muốn. Có thể dùng các phương pháp truyền thống thích hợp hoặc phương pháp hiện đại đã được trắc nghiệm để làm giảm sự khác biệt sắc màu giữa bộ phận cũ và bộ phận mới, song phải lưu ý không làm ảnh hưởng hoặc làm hỏng bề mặt của gỗ. Các bộ phận hoặc mảng mới phải được ghi dấu kín đáo, khắc vào gỗ bằng đục hoặc sắt nung hoặc bằng phương pháp khác, để sau này có thể nhận ra được. Dự trữ rừng lịch sử Cần khuyến khích việc tạo lập và bảo vệ những khu rừng hoặc đất rừng dự trữ có thể cung cấp vật liệu cần thiết cho việc bảo tồn và tu sửa lại kiến trúc bằng gỗ. Các tổ chức có trách nhiệm bảo tồn và bảo toàn các kiến trúc và di chỉ lịch sử cần phải thành lập hoặc khuyến khích thành lập những kho dự trữ gỗ kiến trúc thích hợp cho việc này. Vật liệu và kỹ thuật xây dựng đương đại Các vật liệu đương đại, như nhựa Epoxit, và các kỹ thuật đương đại như gia cố thép kiến trúc cần phải chọn lựa và sử dụng hết sức thận trọng, và chỉ trong trường hợp độ bền và kỹ thuật xây dựng đã được chứng thực là thoả đáng qua một thời gian dài. Những dịch vụ công cộng như thiết bị sưởi, hệ thống phát hiện và đề phòng hoả hoạn phải được lắp đặt như thế nào đó để vẫn tôn trọng ý nghĩa lịch sử và thẩm mỹ của kiến trúc hoặc di chỉ. Việc sử dụng hoá chất để bảo tồn phải được kiểm tra và giám sát cẩn thận, và chỉ dùng lúc nào thấy thực sự có lợi, và ở chỗ nào không làm ảnh hưởng đến an toàn công cộng và môi trường và tính hiệu quả lâu dài của nó đã được minh chứng. Giáo dục và đào tạo Việc tái tạo các giá trị liên quan đến ý nghĩa văn hoá của các kiến trúc lịch sử bằng gỗ thông qua các chương trình giáo dục là một yêu cầu thiết yếu đối với chính sách bảo tồn và phát triển bền vững. Việc xác lập và phát triển các chương trình đào tạo về bảo vệ, bảo tồn và bảo toàn các kiến trúc lịch sử bằng gỗ là cần được khuyến khích, việc đào tạo phải được đặt cơ sở trên một chiến lược toàn diện tụ hội các yêu câu sản xuất và tiêu thụ bền vững, và bao gồm các chương trình ở cấp địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế. Những chương trình phải gửi đến các ngành nghề có liên quan đến loại công việc này và đặc biệt là gửi đến các nhà kiến trúc, quản thủ, kỹ sư, nghệ nhân và các nhà quản lý di chỉ. Theo Cục Di sản Văn hóa ---------- Post added at 12:42 AM ---------- Previous post was at 12:38 AM ---------- BẢO QUẢN HIỆN VẬT LÀM BẰNG GỖ TRONG DI TÍCH Theo số liệu kiểm kê năm 1995, cả nước có trên 4 vạn di tích, trong đó có 2811 di tích đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích quốc gia. Phần lớn trong số 2811 di tích này là các công trình tôn giáo tín ngưỡng như đình, chùa, đền, miếu v.v.. Một đặc điểm của các di tích nói chung, di tích tôn giáo tín ngưỡng nói riêng là thường được làm bằng gỗ, trong mỗi di tích lại chứa đựng hàng chục, thậm chí hàng trăm hiện vật gỗ khác. Bảo quản, tu bổ kiến trúc gỗ và nhất là bảo quản các hiện vật làm bằng gỗ ở di tích là một công việc hết sức khó khăn đối với những người là công tác bảo tồn hiện nay. 1. Đôi nét về hiện vật làm bằng gỗ trong di tích. - Tượng thờ: Hiện vật gỗ phải kể tới đầu tiên là các tượng thờ. Ngôi chùa Việt nào cũng có một hệ thống tượng thờ rất phong phú, đa dạng, đa phần các tượng được làm bằng gỗ, một số ít được làm bằng đất. Trong chùa có bộ Tam Thế, Di Đà Tam Tôn, Hoa Nghiêm Tam Thánh, tượng Di Lặc, Quan Âm Nam Hải, tượng Thích Ca Sơ Sinh với Ngọc Hoàng và Nam Tào - Bắc Đẩu; rồi hệ thống tượng Thập Điện Diêm Vương, La Hán, Kim Cương, Thánh Tăng, Đức Ông, tượng Tổ, tượng Mẫu...Hệ thống tượng ở đền, miếu không có nhiều như ở chùa, thường chỉ là tượng vị thần được thờ ở đền, miếu. Những tượng sớm nhất có niên đại thế kỷ 16 - 17, phổ biến hơn là các tượng có niên đại từ thế kỷ 18 trở lại đây. - Nhang án gỗ: đây là các bàn thờ, hiện vật sớm nhất được biết tới cho tới lúc này có niên đại giữa thế kỷ 17 (nhang án ở chùa Thầy, chùa Bút Tháp). Các nhang án gỗ được chạm khắc hết sức tinh xảo. - Ngai thờ và bài vị: Chiếc ngai ở chùa Nhân Trai - Hải Phòng được các nhà nghiên cứu xác định niên đại cuối thế kỷ 16 là chiếc ngai cổ nhất. - Khám thờ: chỉ có ở một số di tích, khám thường được chạm khắc rất cầu kỳ. - Sập thờ: là hiện vật có thể khối lớn và được chạm khắc rất đẹp. - Bộ Bát bửu: gồm 8 hiện vật là quạt vả, gươm, đàn, hòm sách, bút lông, đôi sáo, lẵng hoa, cuốn thư. - Bộ Chấp kích, Bộ Lỗ bộ: là 8 loại vũ khí làm bằng gỗ. - Các thú thờ: trong các ngôi đền thường có đôi hạc cao lớn hoặc đôi nghê đứng hai bên bàn thờ, ít nơi còn những đôi hạc còn lành lặn. - Kiệu thờ: Hiện vật không thể thiếu khi tổ chức lễ hội tại di tích. Kiệu cũng là hiện vật được chạm khắc dày đặc các đề tài tứ linh, tứ quý. Trên đây là một số hiện vật phổ biến thường có ở di tích, ngoài ra còn có nhiều hiện vật khác như mõ, quán tẩy, bảng văn, trống thờ, quạt thờ... Đó là chưa kể các sắc phong, các bản thần phả là những hiện vật giấy hết sức mỏng manh đã bị mất mát khá nhiều qua những thăng trầm của lịch sử. 2. Môi trường bảo quản của các hiện vật gỗ. Khí hậu Việt Nam hết sức phức tạp và có nhiều vùng khí hậu khác nhau. Miền Bắc có hai mùa rõ rệt, mùa hè nóng và ẩm ướt, mùa đông lạnh và khô. Chen vào những ngày khô lạnh của mùa đông còn có những ngày nồm, mọi thứ đều ẩm ướt. Các di tích tồn tại trong điều kiện môi trường khí hậu như vậy và dĩ nhiên các hiện vật thuộc di tích cũng cùng chung môi trường này. Gần đây, khi thực hiện việc bảo quản, tu bổ hai pho tượng ở chùa Đậu - Hà Tây, một số thiết bị được sử dụng để tạo môi trường riêng cho hai pho tượng. Đây là những hiện vật đầu tiên của di tích có được chế độ bảo quản riêng. Sâu bọ, nấm mốc là sản phẩm đặc trưng của khí hậu nhiệt đới. Sâu bọ và nấm mốc có thể tàn phá hoàn toàn một di tích, những yếu tố này không thiếu trong bất cứ di tích nào của Việt Nam, hàng ngày, hàng giờ đe dọa sự tồn tại của di tích. Cần nói thêm đôi chút về vấn đề quản lý, hiện vật để tại bảo tàng thì được một đội ngũ cán bộ có chuyên môn, có phương tiện kỹ thuật nhất định và có nhà kho được khống chế nhiệt độ, độ ẩm thực hiện chế độ bảo quản thường xuyên. Nhưng hiện vật tại di tích thì phần nhiều là do các cụ cao tuổi ở địa phương trông nom, họ không có bất cứ phương tiện và kiến thức bảo quản hiện đại nào để bảo quản hiện vật. Bảo quản hiện vật gỗ ở di tích trở nên khó khăn và phức tạp hơn bao giờ hết. 3. Những hư hỏng thường thấy ở các hiện vật. Sự phá hủy của sâu bọ (bao gồm cả những vi khuẩn) là hư hỏng dễ nhận thấy nhất ở các hiện vật. Có rất nhiều loại sâu bọ có thể khoan các lỗ nhỏ lên bề mặt của hiện vật hoặc đào những đường hầm ăn sâu vào bên trong hiện vật, những lỗ và đường hầm này làm cho gỗ bị rỗng và trở nên mềm xốp như những miếng bọt biển. Sự phá hủy của nấm mốc không “ầm ĩ” như sâu bọ nhưng nguy hiểm cũng không kém. Nấm mốc có thể phá hủy màu sắc của các hiện vật. Đáng ngại hơn là cùng với các yếu tố khí hậu khác, nấm mốc cũng góp phần làm bong tróc các lớp sơn thếp của hiện vật. Mà như mội người đều biết rằng, đa phần các hiện vật gỗ của di tích đều được sơn son thiếp vàng. Các hiện vật gỗ có kích thước lớn thường được làm từ nhiều khối gỗ ghép lại. Chúng được ghép lại với nhau bởi các mộng, sau đó dùng sơn ta trộn với mạt cưa hoặc bột đá để gắn các khe hở của các chỗ nối với nhau, cuối cùng là những phần việc của sơn thếp. Nếu không vì một lý do nào đó, hiện vật bị hư hỏng thì người ta khó mà hình dung được việc lắp ghép tài tình của những người thợ xưa. Những pho tượng bị bong tróc sơn, các vết ghép bị nứt rời (thân tượng và bệ tượng hoặc tay tượng và thân tượng tách rời nhau) làm cho hiện vật bị biến dạng cũng là hiện tượng thường thấy ở nhiều di tích hiện nay. 4. Những nguyên tắc trong bảo quản, tu bổ các hiện vật gỗ ở di tích. Một là, ưu tiên sử dụng vật liệu truyền thống và phương pháp truyền thống. Những người làm công tác bảo tồn ở Nhật Bản thường khuyến cáo sử dụng vật liệu truyền thống và phương pháp truyền thống trong bảo quản và tu bổ di tích nói chung cũng như hiện vật của di tích nói riêng. Việc sử dụng sơn ta trong bảo quản và tu bổ các hiện vật gỗ mặc nhiên đã được thừa nhận và áp dụng ở Việt Nam vì đây cũng là một nghề truyền thống có lịch sử lâu đời của nhân dân ta. Việc sử dụng các chất keo tổng hợp dường như vẫn còn khá xa lạ, mặc dù người ta đã có nhiều đánh giá khả quan về các loại keo tổng hợp này nhất là dùng để xử lý những vết rỗ bề mặt và đặc biệt là lấp kín các hố sâu bên trong hiện vật. Nhưng tóm lại, việc sử dụng vật liệu truyền thống và phương pháp truyền thống cần khẳng định là ưu tiên hàng đầu khi lựa chọn, quyết định phương án bảo quản, tu bổ. Hai là, việc bảo quản, tu bổ cần bảo đảm giữ gìn hình dáng ban đầu của hiện vật. Hình dáng ban đầu ở đây được hiểu là hình dáng xác thực nhất của hiện vật mà ta biết được. Trường hợp tu bổ pho tượng Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu - Hà Tây là minh chứng cụ thể cho nguyên tắc này. Chùa Đậu có hai pho tượng là hai nhà sư (tượng táng), tượng nhà sư Vũ Khắc Minh vẫn giữ được hình dáng ban đầu, khi tu bổ chủ yếu là xử lý các vết nứt. Tượng nhà sư Vũ Khắc Trường đã bị biến dạng do một trận lụt cách ngày nay trên trăm năm, tượng bị ngập nước và hư hỏng. Dân làng cho sửa chữa lại những đã làm sai lệch hình dáng pho tượng này rất nhiều. Có một số ý kiến muốn sử dụng phương pháp của Ghêraximốp trả lại cho pho tượng hình dáng ban đầu. Nhưng một số ý kiến khác cho rằng nếu có trả lại hình dáng ban đầu thì có thể chỉ là phần đầu tượng còn phần thân thì chúng ta không thể biết được nó như thế nào trước khi trần lụt làm tượng hư hỏng. Do đó, phương án được lựa chọn là phương án chỉ sửa chữa, gia cố những chỗ hư hỏng (hỏng đâu sửa đấy), không thêm hoặc bớt bất cứ chi tiết nào. Chấp nhận những sai sót về mặt giải phẫu, tức là chấp nhận hình dáng của pho tượng mà chúng ta biết được trước khi bảo quản, tu bổ. Nhưng thay đổi về hình dáng của pho tượng cũng chính là một phần của lịch sử mà chúng ta cần tôn trọng, gìn giữ. Ba là, việc bảo quản, tu bổ cần bảo đảm giữ gìn màu sắc ban đầu của hiện vật. Nấm mốc làm biến dạng từng ngày, từng giờ màu sắc của hiện vật. Nhưng cũng cần kể tới một nguyên nhân chủ quan khác. Trong tư duy dân giã, giữ gìn màu sắc của hiện vật ít được chú ý. Với sự phát triển của kinh tế thị trường, ngày càng có nhiều người tham gia đóng góp tu bổ di tích. Một số người đã chọn việc sơn thếp lại các pho tượng để công đức. Các loại hóa chất tổng hợp được sử dụng khá nhiều và trong hầu hết các trường hợp đã phá hủy màu sắc nguyên thủy có tới hai ba trăm năm tuổi. Khi tiến hành son son các cột của di tích đền vua Đinh, vua Lê - Ninh Bình, có ý kiến muốn thay thế các bức cốn vẽ màu ngũ sắc bằng sơn son thiếp vàng cho đồng bộ với tổng thể di tích nhưng việc đó đã không được chấp nhận. Bởi vì, những bức cốn vẽ màu ngũ sắc đã được vẽ trên trăm năm nay, là một phần của lịch sử kiến trúc - nghệ thuật của di tích nên cũng cần phải được gìn giữ mãi mãi. Bốn là, việc bảo quản, tu bổ hiện vật phải thực hiện trên cơ sở điều tra khoa học kỹ lưỡng. Khi điều tra phải trả lời được các thông số về loại vật liệu làm nên hiện vật, chất kết dính là gì, phương pháp kết dính. Tình trạng hư hỏng và nguyên nhân gây hư hỏng. Khi chúng ta đánh giá và tìm đúng nguyên nhân thì chúng ta sẽ đề xuất phương án bảo quản, tu bổ chính xác. Mặt khác cần làm rõ là quá trình bảo quản, tu bổ đã thực hiện trước đây. Những dữ liệu này có thể tìm thấy trong thư tịch hoặc qua điều tra khoa học. 5. Phác thảo những bước đi cơ bản cho việc bảo quản, tu bổ hiện vật gỗ. Trừ trường hợp sửa chữa những hư hỏng rất nhỏ, không đáng kể của hiện vật thì khi tiến hành bảo quản, tu bổ cần thao tác theo một số bước sau: - Ghi chép chi tiết hiện trạng của hiện vật, tìm nguyên nhân hư hỏng. - Làm vệ sinh hiện vật, sử lý sâu bọ bằng các phương pháp cơ học hoặc xông hơi hóa chất. - Chụp ảnh (nếu có điều kiện quay phim) toàn bộ quá trình tháo dỡ, nghiên cứu những bộ phận bị hư hỏng. Việc tháo dỡ các bộ phận hư hỏng cần bảo đảm an toàn cho các bộ phận khác. - Sắp xếp, phân loại các bộ phận của hiện vật: cái nào là nguyên gốc; cái nào mới được bổ sung; đâu là lớp sơn gốc.v.v.. - Đề xuất phương án bảo quản, tu bổ cho từng bộ phận và cho toàn bộ hiện vật. - Thực hiện phương án bảo quản, tu bổ. Kỹ thuật nào chưa từng sử dụng thì không được áp dụng khi chưa qua thử nghiệm. - Hoàn thiện bề mặt và màu sắc của hiện vật. Toàn bộ quá trình bảo quản, tu bổ nói trên phải được thực hiện theo một kế hoạch chặt chẽ. Tư liệu hóa toàn bộ quá trình thực hiện kế hoạch này là yêu cầu bắt buộc để sau này những người làm công tác bảo tồn có thể nghiên cứu xử lý hư hỏng của chính hiện vật đó và tìm kiếm những phương pháp mới tốt hơn. Trên đây chủ yếu là những suy nghĩ mang nặng tính chất kỹ thuật liên quan đến nguyên tắc, quy trình bảo quản, tu bổ hiện vật gỗ ở di tích. Áp dụng những điều này vào thực tế hiện nay còn là chặng đường dài của hoạt động bảo tồn di sản văn hóa ở Việt Nam. Nhưng trước khi lý thuyết được gắn chặt với thực tế, chúng tôi mong mỏi được trao đổi ở đây với các đồng nghiệp để làm sáng rõ và hoàn thiện các quy trình, các kỹ thuật bảo quản, tu bổ nhằm hạn chế đến mức tối đa những sai sót trong quá trình thực hiện./. (Tham luận Hội thảo khoa học "Bảo quản hiện vật chất hữu cơ tại bảo tàng và di tích", ngày 28 - 29/12/2004, tại Hà Nội) Bài viết của TS. Nguyễn Thế Hùng - Cục trưởng Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch)