Đền Lạng Sơn thấy cổ tự rêu phong bên sườn núi, với những hàng thông cao gió reo, những khóm lan tươi tốt….Và xa xa chim lạc ngậm hoa, vượn khỉ dâng quả. Trong chùa thì bia đá phủ rêu xanh, tượng Phật bụi thời gian bao phủ… Thức cảnh sinh tình Tiên Chúa ngẫu hứng ngồi ghế gẩy đàn theo ý thơ ở góc ba cây thông. “ Cô Vân lai vãng hề sơn thiếu nghiêu U điểu xuất nhập hề lâm yêu kiều Hoa khai mãn ngạn hề hương phiêu phiêu Tùng minh vạn hác hề thanh tiêu tiêu Tứ cố vô nhân hề quỳnh trần hiêu, Phủ đàn trường khiêu hề độc tiêu dao Hu ta hề, sơn lâm chi lạc hề Hà giảm linh tiêu”. Dịch nghĩa ( Vũ ngọc Khánh ) Đám mây bây đi bay lại chừ, núi cao ngất Chim đàn lượn ra lượn vào chừ,rừng um tùm Hoa nở đầy bờ chừ, hương thoang thoảng , Thông reo muôn hàng chừ,tiếng rào rào Bốn mặt vắng tanh chừ,cách bụi trần Gẩy đàn ca hát chừ,tư ý tiêu giao Than ôi chừ, cái thú sơn lâm chừ, kém gì trên cung mây. Tiên Chúa vừa hát vừa ca ngợi cảnh núi rừng hao lá, trời mây thiên nhiên song, bỗng có tiếng người ngoài đường xướng rằng: “ Tam mộc xâm đình, tạo trước bảo hề nữ tử ” ( Ba cây mọc tốt tươi trước sân, ngồi đó một nàng gái đẹp ) Tiên Chúa liền ngước nhìn thấy một người mặc áo đẹp, chít khăn kiểu thư sinh, cưỡi ngựa tốt, lại có cờ mao, lính hầu đi theo liền ứng khẩu: “Tùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân ” (Điệp trùng non xanh cùng nối bước, đâu tới sứ giả quan nhân ) Viên quan xuống ngựa hỏi: Nàng là người ở đâu mà thông minh,tài giỏi như thế? Tiên Chúa bèn trỏ tay vào trong khe núi và bảo : - Tôi là người trong núi này ! Viên quan liền xuống: Sơn nhân bằng nhất, kỉ, mạc phi tiên nữ làm phàm ( Ngưòi trong núi ngồi một ghế, phải chăng Tiên nữ giáng trần ) Tiên Chúa ứng khẩu đáp: -Văn Tử đới trường cán, tất thị học sinh thị trướng ( Chàng văn nhân khăn dài, hẳn bậc nho sinh tài giỏi ) Viên quan nghe song vội vàng cúi chào, nhưng khi ngẩng đầu nên thì không thấy hình bóng người Tiên đâu nữa. Tìm trong chùa cũng biệt tăm, chỉ có cây gỗ “ mộc ” nằm ngang bên đường, nhìn kĩ trên thân cây thấy bốn năm chữ “ Mão khẩu công chúa ”, trên cây gỗ còn có biển đề “ Băng mã dĩ tẩu ” . Những người tháp tùng không hiểu bèn hỏi ý nghĩa, viên quan liền giải thích: - Mão Khẩu Công Chúa, lại thêm chữ mộc là Liễu Hạnh Công Chúa. còn biển đề băng mã dĩ tẩu nghĩa là đợi ta, hộ Phùng ( chỉ Phùng Khắc Khoan vì chấm băng bên chữ mã là chữ Phùng ) khởi oong vậy ( chữ dĩ trong chữ tẩu là chữ khởi ). Nghĩa là người Tiên giao cho Phùng Khắc Khoan khởi công tu sửa chùa nơi đây. Quan trạng liền cho gọi các lão làng vùng sơn trang này giao cho một khoản tiền để tu sửa ngôi chùa bên núi. Ông còn để lại một bài thơ ( tạm dịch như sau ): “ Rừng tùng tịch mịch bóng chùa xa Tiếng hát đâu từ phía núi xa Một khúc vờn mây người chẳng thấy Đầy trời sắc núi cảnh nguy nga ”. Từ đó về sau hành tung của Tiên Chúa nay đây mai đó không định. Lúc thì chơi trăng cợt gió, khi qua sông lớn núi cao hoặc vãn cảnh danh lam chùa Tháp khắp mọi nơi. Tiên Chúa còn trở lại thăm cảnh Đông kính như Báo Thiên, Hoàng Đình Đồng Tân