Thủa hỗn mang

Thảo luận trong 'Bài viết nghiên cứu Đạo Mẫu' bắt đầu bởi nguyenhaianh, 18/6/12.

Lượt xem: 3,706

  1. nguyenhaianh

    nguyenhaianh New Member

    Cứ theo truyền thuyết thì thời khi thế giới còn chỉ là khối hỗn mang kẻ sinh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Khi hỗn mang đó sinh ra từ tam thanh , hỗn nguyên hoàng đế , thái cực cốc thần hiệu là thái thanh thái thượng lão quân , khi bàn cổ tan vỡ ra tạo ra đất trời , núi sông thì thần khí tụ thành ngọc thanh nguyên thủy thiên tôn , một khối khí nữa tụ thành thượng thanh linh bảo đại thiên tôn , về sau thượng thanh hiện ra thành ngọc hoàng bấy giờ . Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng, gọi là Tam Hoàng. Rồi đến vua Phục Hi, Thần Nông , Huỳnh , Nghiêu và Thuấn gọi là Ngũ Ðế .
    Thuở ấy, thế giới chia làm bốn châu : Ðông Thắng Thần châu , Tây Ngưu Hạ châu, Nam Thiện Bộ châu , Bắc Cư Lư châu.
     
    Bài viết mới

    Bình Luận Bằng Facebook

  2. 123456

    123456 New Member

    Việt Nam sao lại cứ lấy thuyền thuyết Trung Quốc
     
  3. huongnghialinhtu

    huongnghialinhtu hoạt động

    sao ngày xưa thần thánh không có nhiều chân tay mà lại giống người nhỉ
     
  4. nguyenhaianh

    nguyenhaianh New Member

    Bạn nhầm đấy bạn ạ , truyền thuyết của người kinh đó , truyền thuyết bản cổ trích từ lĩnh nam trích quái mà ra . Người mường thì có trường ca đẻ đất đẻ nước , còn người kinh ta có truyền thuyết bàn cổ này .
     
  5. 123456

    123456 New Member

    Cái này nguồn gốc từ trung quốc. Ai dám khẳng định đây không phải trung quốc nào
     
  6. 123456

    123456 New Member

    Tam Hoàng Ngũ Đế
    Tam: Ba, số 3, thứ ba. Hoàng: vua. Ngũ: năm. Đế: vua.

    Người Tàu cho rằng, khởi thủy của lịch sử nước Trung hoa bắt đầu từ Tam Hoàng và Ngũ Đế.

    Tam Hoàng là ba vị vua đầu tiên của nước Tàu.

    Ngũ Đế là năm vị vua nối tiếp theo Tam Hoàng, có công khai hóa dân tộc Trung hoa, đưa dân tộc nầy thoát khỏi tình trạng ăn lông ở lỗ, biết chế ra lửa để nấu chín thức ăn, biết cất nhà, làm quần áo, trồng ngũ cốc, chài lưới, lễ nghi, và bắt đầu tạo ra chữ viết.

    Đó là thời kỳ sơ khai tối cổ của nước Tàu, văn minh chưa có hay mới bắt đầu có nhưng rất thô sơ, dân chúng rất thưa thớt, sống từng nhóm nhỏ theo lối du mục, không có dấu tích gì còn sót lại, nên người đời sau rất khó nghiên cứu để biết rõ các triều đại tối cổ nầy.

    Những từ ngữ: Tam Hoàng, Ngũ Đế, và hiệu của các vị vua, do người đời sau đặt ra để hệ thống hóa các tư liệu về cổ sử. Còn Đế hiệu thì lấy tên đất mà đặt ra, gọi là Địa hiệu, hoặc lấy công đức đối với dân mà đặt ra, gọi là Đức hiệu.

    Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử nước Tàu thời tối cổ, viết sách lưu lại, vẫn chưa thống nhất với nhau về Tam Hoàng là những vị vua nào, và Ngũ Đế gồm những vị vua nào. Có nhiều thuyết đưa ra nêu trong các sách, đôi khi lại trái ngược nhau, khiến người sau nghiên cứu, không biết đâu là sự thật.

    Sau đây xin trình bày về Tam Hoàng và Ngũ Đế theo hai quyển sách:

    o

    Tam Hoàng Thiên Kinh,
    o

    Thượng Thư Đại truyện và Ngũ Đế Bản Kỷ.

    I. Theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh:

    Phần đầu của sách nầy giải thích về sự tạo dựng Trời Đất và loài người, tóm lược sau đây:

    Ban đầu Trời Đất là một khối Hỗn mang như quả trứng gà, ông Bàn Cổ được sanh ra trong ấy. Mười tám ngàn năm sau, Trời Đất mới khai tịch, khí Dương thanh nhẹ bay lên thành Trời, khí Âm nặng đục hạ xuống thành Đất. Bàn Cổ ở trong ấy, một ngày biến đổi 9 lần, Trời mỗi ngày cao thêm một trượng, Đất mỗi ngày dày thêm một trượng, Bàn Cổ mỗi ngày lớn một trượng, v.v....

    Bàn Cổ sanh ra nhơn loại, và là vị vua đầu tiên của nhân loại, nên gọi Ngài là Thiên Hoàng.

    Nối tiếp Thiên Hoàng là Địa Hoàng và Nhân Hoàng.

    Hợp chung ba vị vua lại gọi là Tam Hoàng.

    Thiên Hoàng là Bàn Cổ, mà Bàn Cổ chính là Đấng Thái Thượng Đạo Quân, nên trong Kinh Tiên Giáo có câu:

    "Khai Thiên, Địa, nhơn, vật chi tiên."
    "Cửu Hoàng Tỹ Tổ."

    Nối tiếp Tam Hoàng là Tam Vương. Tam Vương gồm:

    - Ngũ Long, - Hữu Sào, - Toại Nhân.

    Nối tiếp Tam Vương là Ngũ Đế. Ngũ Đế gồm:

    - Phục Hy, - Thần Nông, - Hoàng Đế,
    - Đường Nghiêu, - Ngu Thuấn.

    Vậy theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh thì:
    * TAM HOÀNG gồm: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng.
    * TAM VƯƠNG gồm: Ngũ Long, Hữu Sào, Toại Nhân.
    * NGŨ ĐẾ gồm: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.
    II. Theo sách Thượng Thư Đại Truyện và Ngũ Đế Bản Kỷ:

    Ban đầu, Trời Đất là một khối Hỗn mang hình giống như quả trứng gà. Bàn Cổ sanh ra trong ấy. Sau đó, khí Dương nhẹ bay lên thành Trời, khí Âm nặng đục kết thành Đất.

    ■ Sau đời Bàn Cổ là Tam Hoàng.
    Tam Hoàng gồm:
    -Toại Nhân, - Phục Hy, - Thần Nông.

    ■ Nối tiếp Tam Hoàng là Ngũ Đế:
    Ngũ Đế gồm:
    - Hoàng Đế, - Chuyên Húc,
    - Đế Cốc, - Đường Nghiêu, - Ngu Thuấn.

    ■ Nối tiếp Ngũ Đế là Tam Đại.
    Tam Đại gồm:
    - Nhà Hạ, do vua Hạ Võ lập ra.
    - Nhà Thương, do vua Thành Thang mở ra.
    - Nhà Châu, do vua Văn Vương lập ra.
    III. Theo sự khảo cứu của các nhà Sử học hiện nay:

    Các đời vua vào thời tối cổ nước Tàu thì không thể xác định được, chỉ có thể nghiên cứu các vị vua từ Phục Hy trở về sau, tính theo năm Tây lịch, kể ra sau đây:
    - Phục Hy : năm 2852 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Thần Nông : năm 2737 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Hoàng Đế : năm 2697 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Thiếu Hiệu : năm 2597 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Chuyên Húc : năm 2513 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Đế Cốc : năm 2453 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Đế Chí : năm 2365 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Đường Nghiêu : năm 2341 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Ngu Thuấn : năm 2268 trước Tây lịch kỷ nguyên.
    - Hạ Võ : năm 2205 trước Tây lịch kỷ nguyên.

    Trong số các vị vua kể trên, có năm vị vua được dân chúng nhắc đến nhiều nhất, được tôn là Thánh Vương, vì đã có nhiều công lớn trong việc phát minh những điều hữu ích quan trọng để giáo hóa dân chúng. Năm vị Thánh Vương nầy đắc đạo tại thế, có huệ nhãn, nhìn biết được các lẽ mầu nhiệm của Trời Đất. Năm vị Thánh Vương được gọi chung là Ngũ Đế:

    - Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế
    - Đường Nghiêu - Ngu Thuấn.
    IV. Công đức của Tam Hoàng - Ngũ Đế:

    1. Ngũ Long:

    Vua Ngũ Long dạy dân lột da thú làm áo quần, lấy lá cây làm nón che đầu.

    2. Hữu Sào: (Hữu là có, Sào là tổ chim)

    Vua Hữu Sào dạy dân làm ổ trên cây để ở, tránh nạn thú dữ hãm hại, sau dạy dân đốn gỗ làm giàn cất gác, lợp nhà, thế cho hang lỗ trước kia. Con người bây giờ không còn ăn chung ở lộn với các loại thú cầm.

    3. Toại Nhân: (Toại là khoan gỗ lấy lửa, Nhân là người)

    Toại Nhân là người tìm ra được lửa, dạy dân chúng dùng lửa để nấu chín thức ăn cho khỏi tanh hôi. Việc tìm ra lửa là một phát minh vô cùng quan trọng, vì nó giúp con người nấu nướng thức ăn, khỏi phải ăn thịt sống như cầm thú.

    Nhờ Hữu Sào, con người thoát khỏi cảnh ở hang lỗ.

    Nhờ Toại Nhân, con người có lửa, tách khỏi cầm thú.

    4. Phục Hy:

    Vua Phục Hy có mẹ tên là Hoa Tư. Ngày kia, bà thong thả dạo cảnh trong núi, bỗng thấy một vị cừ nhân đi qua, để lại vết chân rất sâu và lớn. Bà Hoa Tư tình cờ bước theo dấu chân ấy của linh Thần, bèn cảm động tâm thần, chợt thấy hồng quang chiếu vào bụng, liền thọ thai, 16 tháng sau, sanh ra Phục Hy tại xứ Thành Kỷ (bây giờ là Hiệp Tây).

    Phục Hy còn có tên là Thiếu Hạo, khổ người cao lớn, cao 1 trượng 6 thước, có nhiều đức tốt, được dân chúng tôn lên làm vua năm Ngài 18 tuổi.

    Phục Hy định kinh đô tại Huyển Khưu, lấy Mộc đức trị dân. Ngài có bốn bề tôi lương đống là: Cộng Công, Bá Hoàng, Châu Nương, Hào Anh, cùng với em gái là Bà Nữ Oa, giúp việc trị nước an dân, trên thuận mạng Trời, dưới hòa mọi người. Các bộ tộc lân bang, bát man, phi cầm tẩu thú đều mến đức, đến chầu Ngài. Ngài là vị vua có tuệ nhãn, biết được các lẽ bí mật của cõi vô hình.

    Một ngày kia, nghe dân báo có một con quái vật đầu rồng mình ngựa, mới nổi lên trên sông Hoàng Hà làm nước sông dâng cao lụt lội. Ngài liền đến đó, thấy quái vật, Ngài biết nó là con Long Mã, một loài thú linh.

    Ngài nhìn nó nói rằng:

    - Nếu phải nhà ngươi đem vật báu đến dâng ta thì hãy lại gần đây.

    Long Mã như biết nghe tiếng người, từ từ đi khơi khơi trên mặt nước vào bờ, đến trước Phục Hy, quì xuống. Nhà vua gỡ lấy bảo kiếm trên lưng, và nhìn thấy trên lưng Long Mã có một bức đồ gồm 55 chấm đen trắng. Sau đó, Long Mã trở ra giữa sông, rồi biến mất. Mực nước sông Hoàng Hà sụt xuống, trở lại như trước.

    Vua Phục Hy vẽ lại những chấm đen trắng trên lưng Long Mã, tạo thành bức đồ gọi là Hà Đồ, rồi nhà vua quan sát các hiện tượng thiên nhiên trong Trời Đất, sáng chế ra Tiên Thiên Bát Quái Đồ, để giải thích sự hình thành vũ trụ.

    Vua Phục Hy lại chế ra lịch cho dân dùng, định năm tháng và mùa tiết cho dân gieo trồng cấy gặt.

    Về âm nhạc, vua Phục Hy chế ra đàn sắt, đàn cầm và ca khúc Giá Biện. Phục Hy chế ra lưới đánh cá. Câu Mang phỏng theo lưới đánh cá ấy mà làm ra lưới bắt chim. Nhờ các sáng chế nầy mà dân chúng dễ kiếm sống hơn trước.

    Sách Cổ Sử Khảo (được dẫn trong sách Dịch Sử) viết rằng: Phục Hy đặt ra giá thú. Bà Nữ Oa là Thần Bà Mối đặt ra hôn nhân.

    Sách Trung quốc Sử lược của Phan Khoang viết: "Phục Hy dạy dân nuôi thú vật để sai khiến, làm lưới để săn và đánh cá, nuôi tằm, vẽ Bát quái chỉ cái lẽ Âm Dương biến hóa của vạn vật, chế đàn cầm đàn sắt, dạy dân phép cưới vợ gả chồng (dùng một đôi da thú làm lễ, vì ở thời kỳ ngư lạp, da thú là quí), từ đó mới có các danh từ gia tộc."

    Phục Hy làm vua được 97 năm thì băng. Em gái là Nữ Oa lên kế vị. Bà có tài luyện Ngũ Vân Thạch bổ Thanh Thiên. Tương truyền, Bà Nữ Oa làm vua được 130 năm thì mất.

    5. Thần Nông:

    Vua Thần Nông hiệu là Viêm Đế, tên là Thạch Niên, con của ông Thiếu Điền và bà An Đăng. Tương truyền bà nằm mộng thấy rồng đoanh và sanh ra Ngài tại thạch thất trong núi Liệt Sơn. Vua Thần Nông có khổ người to lớn, bề cao 8 thước 7 tấc, được tôn làm vua, lấy Hỏa đức cai trị dân, được thiên hạ phục tòng, long chầu hổ bái. Thật là đời thái bình Thánh đức.

    Thần Nông thấy dân chúng giết thú vật ăn thịt quá nhiều, lòng chẳng nỡ, liền đi tìm kiếm các giống ngũ cốc, rồi chế ra cày bừa, dạy dân cày cấy gieo trồng ngũ cốc, gặt lấy hạt rồi nấu chín mà ăn. Vua Thần Nông tổ chức cho dân họp chợ, trao đổi hàng hóa để mọi người dân có đủ đồ dùng. Nhờ vua Thần Nông mà dân chúng bắt đầu định cư định canh, từ bỏ dần đời sống du mục.

    Ngài thấy dân chúng bệnh hoạn ốm đau, Ngài ra công tìm kiếm các loại cây thuốc để trị bịnh cho dân. Tương truyền, vua Thần Nông có chiếc roi thần, Ngài vụt roi vào cây thì Ngài biết được tính chất trị bịnh của từng cây thuốc.

    Cũng có thuyết nói rằng, vua Thần Nông phải nếm các cây thuốc để định dược tính của nó. Có khi trong một ngày, nhà vua phải nếm đến 70 loại cây thuốc khác nhau, có nhiều cây độc khiến Ngài nhiễm bịnh. Ngài phải suy nghĩ tìm cách trị bịnh cho mình có kết quả, rồi đem kinh nghiệm ấy truyền dạy cho dân. Ngày kia, Ngài nếm phải một cây thuốc rất độc, làm cho Ngài bị đứt ruột mà chết. Dân chúng hay được đều than khóc thương tiếc Ngài. Ngài mất ở Trường Sa, thọ 140 tuổi, làm vua được 120 năm.

    Ngài là vị vua dám hy sinh tánh mạng của mình để tìm ra dược tính của cây thuốc mà trị bịnh cho dân. Dân chúng rất nhớ ơn Ngài, tôn Ngài là Tổ của nghề làm ruộng và Tổ của nghề chế thuốc trị bịnh. Thật là một vị Đại Đức Chơn Vương.

    6. Hoàng Đế tức Hiên Viên Huỳnh Đế:

    Vua Hoàng Đế hiệu là Hiên Viên, con của bà Phù Bửu. Mẹ Ngài nằm mơ thấy sao Bắc Đẩu rớt vào mình mà thọ thai sanh ra Ngài. Thuở nhỏ, Ngài rất thông minh, có tánh thần linh, thường khuyên người đồng thời lo làm lành và tu ngũ đức.

    Theo sách Ngũ Đế Bản Kỷ, thì sau đời vua Thần Nông, các bộ tộc mạnh nổi lên tranh giành quyền hành, mà bộ tộc Xuy Vưu là hùng mạnh hơn cả, nhưng rất tàn ác. Những bộ tộc nào không tùng phục Xuy Vưu thì bị Xuy Vưu đem binh đến đánh tiêu diệt. Các bộ tộc liên kết với nhau chống lại Xuy Vưu, tôn thủ lãnh bộ tộc Hữu Hùng Thị ở huyện Tân Trịnh lên làm Thống lãnh đánh lại Xuy Vưu.

    Trận đánh dữ dội xảy ra ở Trác Lộc, sương mù bao phủ dày đặc làm cho không nhận định được phương hướng, Hữu Hùng Thị bị Xuy Vưu vây hãm, không biết đường nào đánh ra cho thoát. Tương truyền Bà Cửu Thiên Huyền Nữ hiện đến giúp Hữu Hùng Thị chế tạo xe hai bánh chỉ Nam để định phương hướng, và dạy cho binh pháp. Nhờ vậy, Hữu Hùng Thị biết hướng và cách đánh ra, khiến cho Xuy Vưu thảm bại và bị giết chết. Thủ lãnh Hữu Hùng Thị được các bộ tộc tôn lên làm vua, xưng hiệu là Hiên Viên Hoàng Đế, lấy Thổ đức trị dân.

    Hoàng Đế (Huỳnh Đế) chế tạo được thuyền bè để đi lại và chở hàng hóa trên sông, làm nhà cửa để ở tránh mưa gió.

    Sách Hoài Nam Tử chép rằng: Hoàng Đế sai bề tôi là ông Thương Hiệt chế ra chữ viết. Thương Hiệt quan sát hình tượng các vật trên mặt đất, hợp với các Thiên tượng mà chế tác ra văn tự tượng hình. Khi văn tự chế thành thì tiếng sấm nổ vang, quỉ Thần đều run sợ, Trời mưa xuống những hạt lúa trắng ban cho dân ăn mạnh khỏe.

    Tuy chữ viết rất thô sơ nhưng cũng ghi lại được những sự việc quan trọng của các đời trước, những kinh nghiệm, kiến thức, sự tích để truyền bá và lưu lại. Nhờ đó, văn minh được tỏa sáng từ thời trước qua thời sau, sách vở xuất hiện, giáo dục bắt đầu phát triển, đạo lý được đề cao, trí thức được bồi dưỡng.

    Sách Lã Thị Xuân Thu viết rằng: "Hoàng Đế sai ông Linh Xuân chế tác ra Nhạc luật; sai ông Đại Nhiễu chế ra Can, Chi, Giáp Tý, để làm lịch pháp, tính ngày, tháng, năm và giờ. "

    Sách Đế Vương Thế ký chép, vua Hoàng Đế sai ông Kỳ Bá viết ra sách thuốc để dạy nghề y dược trị bịnh cho dân.

    Hoàng Đế phân chia nước ra làm Châu, Quận, xây cất cung điện, chế ra áo mão cho các quan, phân biệt theo ngũ sắc.

    Đặc biệt Hoàng Hậu của vua Hoàng Đế là bà Luy Tổ biết được cách trồng dâu nuôi tằm lấy tơ dệt lụa, nhờ đó mà Hoàng Đế mới chế tạo áo mão cho các quan.

    Sách Thương Quân viết: "Đời Thần Nông, con trai cày mà ăn, con gái dệt mà mặc, không dùng hành chính mà dân được trị, không dấy binh đao mà làm vua thiên hạ. Vua Thần Nông mất rồi thì các bộ tộc nổi lên, mạnh hiếp yếu, đông hiếp ít, nên vua Hiên Viên Huỳnh Đế mới bày ra nghĩa vua tôi, trật tự trên dưới, lễ cha con, anh em, và sự phối hợp vợ chồng."

    Xem thế thì thời vua Hoàng Đế xảy ra một biến chuyển quan trọng trong lịch sử về chánh trị và xã hội của nước Tàu.

    Từ thời vua Thần Nông, dân chúng bắt đầu định cư để làm ruộng, nên có quan niệm tư sản. Đã có tư sản ắt có tranh giành, nên vua Hoàng Đế phải lập luật pháp và dùng hình phạt. Vua thâu điền thổ làm của công, đặt ra phép tỉnh điền để chia ruộng đất cho dân. Vua phong các bộ tộc làm chư Hầu được thế tập. Số chư Hầu lúc đó rất đông.

    Vua Hoàng Đế sai khai thác mỏ đồng ở núi Thủ Sơn, đúc thành một cái đỉnh rất lớn hình trái bầu, gọi là Đỉnh hồ, cao một trượng 3 thước, có thể chứa 10 thạch lúa. Chung quanh đỉnh có chạm hình rồng bay và hình các thú lạ.

    Khi chiếc đỉnh hoàn thành, nhà vua cầu Ngũ Long thiên võ, liền có Hùynh Long hạ giáng, chấm râu vào đỉnh.

    Vua Hiên Viên Huỳnh Đế và Hoàng Hậu đều lo trau giồi tâm tánh, hằng tu nhơn tích đức.

    Ngày kia, Đức Nguơn Thủy đang ngồi nơi Cung Ngọc Hư núi Côn Lôn, nhận thấy lòng thành của vua Hiên Viên và Hoàng Hậu, nên sai học trò là Quảng Thành Tử xuống trần khai tâm và dạy đạo cho vua. Quảng Thành Tử vâng lịnh thầy, cỡi mây lành bay xuống thành vua trong đêm trăng sáng, gọi vua và Hoàng Hậu ra trước lầu Vọng Nguyệt dạy rằng:

    - Lòng thành của hai vị thấu đến Ngọc Hư, nên ta vâng lịnh đến đây hướng dẫn và truyền pháp cho hai vị tu luyện. Hai vị hãy ráng dọn mình cho trong sạch, sắm sẵn một đỉnh đồng đặt trên lầu cao, khi nào cần hỏi điều chi thì đốt trầm hương trong đỉnh mà đảnh lễ cầu nguyện, tức thì ta hay được sẽ đến.

    Nói xong, Quảng Thành Từ dùng phép khai quang cho vua Hiên Viên và Hoàng Hậu, rồi truyền cho phép luyện đạo.

    Vua và Hoàng Hậu sau khi được hưởng phép Khai quang thì trí não quang minh sáng suốt, lời dạy bao nhiêu đều ghi nhớ rõ ràng. Từ đó hai vị chuyên tâm tu hành, việc triều đình thường giao cho các quan đầu triều lo liệu.

    Khi nhà vua tu thuần thục rồi, liền đốt trầm hương nơi đỉnh đồng để cầu thầy là Quảng Thành Tử đến truyền đạo tiếp.

    Lần lựa ngày tháng trôi qua, vua và Hoàng Hậu tu luyện đạt đến mức cao, Quảng Thành Tử hiện đến dạy rằng:

    - Hai vị đã tu hành sắp đến ngày chứng quả, kể từ ngày mai, hãy ra lịnh cho bá quan văn võ miễn lai trào. Hai vị cố gắng giữ lòng thanh tịnh, trong vài ngày, ta sẽ đến.

    Vua Hiên Viên và Hoàng Hậu lãnh ý, liền ra lịnh cho các quan bãi chầu trong 3 ngày, khiến các quan lấy làm lạ không biết lý do gì, nhưng cứ tuân theo chiếu chỉ.

    Đến ngày thứ ba, các quan kéo đến ngọ môn xem vua có ra lịnh mới chi không, bỗng thấy một luồng gió cuốn trên không, mùi hương sực nức bay khắp cung điện, kế thấy từ trên lầu cao, vua và Hoàng hậu ngồi trên lưng rồng vàng, có mây lành đỡ dưới, bay thẳng lên Trời, rồi từ từ khuất vào đám mây.

    Cả thảy bá quan và dân chúng đều biết rằng, vua Hiên Viên và Hoàng Hậu Luy Tổ đã tu hành lâu năm, nay đắc đạo, có Huỳnh Long bay xuống, rước về Trời.

    Cho nên thơ cổ có câu: "Vân ám đỉnh hồ long khứ viễn" nghĩa là: mây che đỉnh hồ, rồng bay xa, để chỉ việc vua Hiên Viên và Hoàng Hậu đắc đạo, có rồng bay xuống rước lên Trời.

    Nghiêu - Thuấn là vua Nghiêu và vua Thuấn, hai vị vua hiền vào thời thượng cổ nước Tàu, mà sử sách đời sau ca tụng là hai vị Thánh vương, dùng đức trị dân khiến cho dân chúng hưởng được thái bình an lạc. Cho nên có câu nói: Nghiêu Thiên Thuấn nhựt, nghĩa là Trời Nghiêu ngày Thuấn, để chỉ đời tháibình hạnhphúc dưới hai trào vua: Nghiêu và Thuấn.

    Vua Nghiêu lên ngôi năm 2356 trước Tây lịch kỷ nguyên, làm vua được 70 năm, rồi truyền ngôi lại cho vua Thuấn năm 2255 trước Tây lịch.
    I. Đường Nghiêu (-2356):

    Vua Nghiêu họ Đường, làm tới chức Hầu, nên gọi là Đường Hầu, sau lên làm vua, đóng đô ở đất Đào, nên lập quốc lấy hiệu là Đào Đường.

    Đức tính của vua Nghiêu thì cung kính, thông minh, văn chương rõ rệt, ý tứ sâu xa, tự nhiên mà không miễn cưỡng, lại hay kính cẩn khiêm nhường, đức trạch khắp bốn cõi, đến cả trên Trời dưới đất.

    Vua Nghiêu ở ngôi được 70 năm thì một hôm vua Nghiêu gọi quan Tứ Nhạc đến bảo rằng: (Tứ Nhạc là chức quan đại thần coi tất cả chư Hầu bốn phương)

    - Hỡi quan Tứ Nhạc! Trẫm ở ngôi được 70 năm, ngươi có thể theo mệnh lệnh của Trẫm, Trẫm nhường ngôi cho.

    Quan Tứ Nhạc thưa rằng:

    - Hạ thần đức kém, không xứng ngôi vua.

    Vua Nghiêu lại nói:

    - Các ngươi tiến cử một người đã hiển đạt hay là con nhà ti tiện, quí hồ có đức vọng là hơn.

    Các quan đồng ý tâu rằng:

    - Ở dân gian có người tên Ngu Thuấn.

    - Phải, Trẫm cũng có nghe nói, nhưng người ấy thế nào?

    Quan Tứ Nhạc thưa rằng:

    - Người ấy là con của một người lòa, cha ngoan cố, mẹ ghẻ lắm điều, người em dị bào tên là Tượng có tánh ngạo ngược, thế mà Thuấn một lòng hiếu thảo, khiến cho họ biết hối lỗi, quay trở lại làm thiện, không xảy ra sự gian ác gì.

    Vua Nghiêu nói:

    - Ta thử xem sao, gả hai con gái ta cho người ấy xem cách tề gia đối với hai con gái ta thế nào?

    Nói rồi sửa soạn hành trang, đưa cả hai con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh đến sông Vị (một nhánh của sông Hoàng Hà) để làm vợ Ngu Thuấn. Vua Nghiêu răn hai con gái:

    - Phải kính cẩn giữ cho trọn đạo.

    Sau ba năm dò xét, vua Nghiêu kêu ông Thuấn bảo:

    - Lại đây, ngươi Thuấn, ta hỏi công việc và xét lời nói của ngươi đều có thành tích. Đến giờ đã ba năm, ngươi đáng lên ngôi vua thay ta.

    Ông Thuấn tự khiêm là người đức kém, chưa đáng lên ngôi vua, xin nhường cho người đức tốt, nhưng vua Nghiêu không chịu.

    Ngày mùng 1 tháng giêng, vua Thuấn nhận mệnh lên ngôi vua ở miếu thờ Đức Văn Tổ.

    Vua Nghiêu dặn vua Thuấn:

    - Doãn chấp quyết trung (hãy giữ cái đạo Trung).

    Như vậy, vua Nghiêu lên làm vua năm 16 tuổi, ở ngôi 70 năm, thử tài đức của ông Thuấn 3 năm, tuổi già không thính chính 28 năm, thọ 117 tuổi.
    II. Ngu Thuấn (- 2255):

    Vua Thuấn ở đất Ngu nên lấy họ là Ngu, nối ngôi vua Nghiêu.

    Vua Thuấn định lại 4 mùa, tháng ngày cho đúng nhau, đặt lại luật âm nhạc, cách đo chiều dài, cách đong, cách cân đều theo một luật, sửa lại Ngũ Lễ.

    Rồi vua Thuấn đi tuần thú bốn phương, thăm viếng các nước chư Hầu, tế lễ các Thần núi. Vua Thuấm đặt ra lệ, cứ 5 năm, vua đi tuần thú bốn phương một lần.

    Các vua chư Hầu ở bốn phương, lần lượt mỗi năm một nước lại chầu, tâu bày việc cai trị trong nước mình. Vua Thuấn theo đó mà xét công trạng, chư Hầu nào xứng đáng thì thưởng xe lộ xa và áo huyền cổn.

    Vua Thuấn lên ngôi năm 30 tuổi, nay vua được 93 tuổi, làm vua được 63 năm, nay bắt chước vua Nghiêu, muốn nhường ngôi lại cho người hiền là ông Vũ.

    Ông Vũ nói:

    - Tôi đức trạch không khắp, chắc dân không theo. Thầy Cao Dao gây nhiều đức vọng khắp dân gian, dân đều cảm phục. Dám xin nhà vua nghĩ lại. Tôi thường nghĩ chỉ có ông Cao Dao.

    Vua Thuấn nói:

    - Thầy Cao Dao! Bầy tôi và dân bây giờ không có ai phạm đến chánh trị của ta, ấy là vì có ngươi làm quan Sĩ Sư, xử 5 tội hình rất minh xác, để giúp về sự giáo hóa trong 5 bậc thường mà mong cho được thạnh trị. Xử việc hình mà vẫn mong cho dân không bị hình phạt, nên nhân dân hòa hiệp theo đạo trung. Thực là cái công của nhà ngươi.

    Vua Thuấn lại nói thêm với ông Vũ:

    - Lại đây thầy Vũ! Trời ra tai nước lụt, có ý răn ta. Nay tin giữ được lời nói, làm được thành công, ấy là tài của ngươi, chăm chỉ việc nước, tiết kiệm việc nhà, bụng không tự mãn, ấy là đức tốt của ngươi. Ngươi không khoe tài, không khoe công, thiên hạ ai cùng ngươi tranh công. Ta quí các đức tốt của ngươi, khen cái công to của ngươi. Lịch số của Trời nay đến lượt nhà ngươi. Ngươi đáng lên ngôi vua.

    Sáng ngày mùng 1 tháng Giêng, vua Vũ chịu mệnh ở miếu thờ Đức Thần Tông (vua Nghiêu), tổng xuất các quan, lên ngôi vua, nối ngôi vua Thuấn, mở ra nhà Hạ,

    Vua Thuấn theo lời dặn dò của vua Nghiêu, dặn lại vua Vũ: Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh, duy nhứt, doãn chấp quyết trung. Nghĩa là: Cái tâm của người thì hiểm nghèo, cái tâm của đạo thì kín nhiệm, phải giữ cái tâm mình cho tinh thuần và chuyên nhất, mới giữ được đạo Trung.

    Nơi mặt ngoài của cái bao lơn tròn trước Tòa Thánh Tây Ninh, có một bức tranh tạc hình vua Nghiêu và ông Thuấn đang cày ruộng, đề tựa là: Vua Nghiêu - Vua Thuấn, lấy tích ông Thuấn cày ruộng ở Lịch Sơn, để tượng trưng chữ CANH.

    Theo Nho giáo, ba vị vua: Nghiêu, Thuấn, Vũ là ba vị Thánh vương có công lao vĩ đại đối với dân chúng, nên được dân chúng tôn lên làm ba vị Đại Đế, được cúng tế rất long trọng vào ngày rằm của ba nguơn trong một năm, kể ra:

    - Rằm tháng Giêng, Thượng Nguơn, tôn vua Nghiêu là: Thượng Nguơn Tứ Phước Thiên Quan Đại Đế Thắng Hội, gọi tắt là: Thượng Nguơn Thiên Quan Tứ Phước.

    - Rằm tháng Bảy, Trung Nguơn, tôn vua Thuấn là: Trung Nguơn Xá Tội Địa Quan Đại Đế Thắng Hội, cũng gọi là: Trung Nguơn Địa Quan Xá Tội.

    - Rằm tháng Mười, Hạ Nguơn: tôn vua Hạ Vũ là: Hạ Nguơn Giải Ách Thủy Quan Đại Đế Thắng Hội, cũng gọi là: Hạ Nguơn Thủy Quan Giải Ách.
     
  7. nguyenhaianh

    nguyenhaianh New Member

    liệu vị đây có biết là Lạc long quân là cháu của thần nông Không ? đọc lại hùng triều sử lược đi ạ .

    Chúng ta đã nghe nhiều về ông Bàn Cổ .... bây giờ xin nhận diện chân tướng ông Bàn Cổ xem cho rõ thật hư ra sao.
    Theo cổ thư Trung Hoa viết vào thế kỷ thứ ba sau Tây Lịch (nghĩa là đã rất muộn, đã liên hệ nhiều với Nam Man), thời kỳ Hỗn Mang hay Hỗn Ðộn (Chaos) vũ trụ giống như một cái trứng gà. Lúc đó đất trời chưa có. Từ trái trứng này đẻ ra ông Bàn Cổ (Bangu), thường được vẽ bằng hình một người lùn hai tay cầm cái trứng hỗn mang Âm Dương. Phần nặng của trứng lắng xuống thành đất, phần nhẹ bay lên thành bầu trời. Trong suốt thời kỳ 18 ngàn năm khoảng cách giữa trời và đất tăng dần, cứ tăng 3 mét mỗi ngày và ông Bàn Cổ cũng trưởng thành theo cái đà đó nên thân thể ông luôn luôn chống giữ được trời đất không bị xẹp lép trở lại. Khi Bàn Cổ chết những phần thân thể của ông trở thành những yếu tố thiên nhiên. Tùy theo thời kỳ, tùy theo sách vở, chi tiết về sự cấu tạo vũ trụ viết thay đổi. Về đời Hán hay trước đó ít lâu thì đầu Bàn Cổ thành Ðông Sơn (Núi phía Ðông), bao tử thành Trung sơn, tay trái Nam sơn, tay phải Bắc sơn và chân Tây sơn. Sách vở khác lại cho rằng đầu cho ra núi bốn phương, mắt cho ra trời, trăng, thịt cho ra sông biển, tóc đẻ ra cây cỏ... sách vở viết vào thời khác lại cho rằng nước mắt của Bàn Cổ tạo ra sông biển, hơi thở là gió, mắt là chớp và tiếng nói là sấm... sách khác lại nói thân Bàn Cổ cho ra bốn phương chính và năm ngọn núi chính (có liên hệ gì với Ngũ Lĩnh chăng ?), máu thành sông biển, thịt là đất đai... và bọ chét trên người ông biến thành loài người...
    Với truyền thuyết về trái trứng và Bàn Cổ thấy xuất hiện rất muộn trong cổ thư Trung Hoa và viết không thống nhất rất hỗn độn vá víu... như thế rõ ràng là Bàn Cổ không phải của người Trung Hoa. Quan niệm vũ trụ là một cái trứng là của Nam Man chúng ta (ăn khớp với việc bà Âu Cơ đẻ ra trứng). Chúng tôi đã chứng minh trái trứng vũ trụ này là vị tổ tối cao tối thượng của chúng ta. Ðó chính là Mẹ Trứng Vũ Trụ Thần Nông hay Thần Nang (nang là từ nôm không phải là Hán Việt, nang ruột thịt với nàng). Trung Hoa đã lấy ông tổ thần Nang này của Hừng Việt.
    Ông Bàn Cổ do trứng vũ trụ đẻ ra, tức là do Mẹ Thần Trứng Vũ Trụ Thần Nông hay Thần Nang đẻ ra. Vậy Bàn Cổ cũng phải là của chúng ta. Bắt buộc.
    Thật vậy Bàn Cổ của Nam Man, của Hừng Việt.
    Ta có thể tìm thấy dấu tích Bàn cổ nơi Hừng Việt Nam qua nhiều địa hạt:
    1.Ngữ học
    Không biết người Trung Hoa cắt nghĩa từ Bangu, Bàn Cổ như thế nào nhưng chúng tôi sẽ cắt nghĩa theo Việt ngữ. Việt ngữ Bàn Cổ có Bàn cùng âm với ban là đỏ ví dụ lên ban sởi (ban đỏ), nổi ban (nổi vẩn đỏ). Trung Nam gọi chứng bệnh sốt, nổi mần đỏ ở da là ban, trong khi người Bắc gọi là lên sởi. Ban sởi là từ ghép điệp nghĩa. Sởi = ban. Sởi là sưởi (o=uo, hồng = hường), ngày nay hiểu sưởi là hơ lửa cho ấm như sưởi ấm, lò sưởi. Vậy sưởi cũng như ban, bàn liên hệ tới đỏ, tới nóng, lửa, đỏ, tới mặt trời. Bệnh sởi là bệnh nóng sốt nổi đỏ ở da.
    Từ Cổ cùng Âm với Cố. Cố là tổ như ta thường nói ông cố tổ. Vậy Bàn Cổ là ông Tổ Ðỏ, ông Tổ Mặt Trời.
    Chúng ta thường gọi ông Bàn Cổ là ông Bành Tổ. Chúng ta đã nói trại đi, thật ra phải gọi là ông Bàng Tổ. Bàng là bàn, là ban, là đỏ như cây bàng là cây có lá trở thành đỏ thắm về mùa thu. Trịnh Công Sơn trong bài "Mùa Thu Hà Nội" có câu "Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ...". Bàng tổ là ông tổ đỏ. Hiểu như thế ta thấy ngay Bàn Cổ và Bàng Tổ đều là ông Tổ Ðỏ. Người Trung Hoa gọi chúng ta là Xích Quỉ, quỉ đỏ. Vậy ông Bàn Cổ, ông Bành Tổ, ông Bàng Tổ phải là của dân Ðỏ.
    Bàn Cổ, Bàng Tổ là ông tổ của họ Hồng Bàng.
    2. Truyền Thuyết Nam Man Hừng Việt
    Việt Nam
    Ở trên ta thấy ông Bàng Tổ là một người khổng lồ, lớn dần với thời gian, mỗi ngày cao thêm ba mét để chống trời. Lúc vũ trụ mới tạo lập từ cái trứng hãy còn mềm ông Bàng Tổ đã dùng thân mình làm cây cột chống trời để nóc trời không xụp xuống, xẹp lép lại. Nói một cách khác ông Bàng Tổ là một ông thần trụ trời. Bàng Tổ chính là Ông Trụ Trời trong truyện thần thoại Việt Nam:
    "Thuở trời đất còn mịt mù hỗn độn, tự nhiên hiện lên một vị thần to lớn khác thường, đầu đội trời, chân đạp đất, đào đất vác đá đắp thành một cái cột to cao để chống trời lên mà phân chia ra trời đất. Trời như một cái vung úp, đất bằng như một cái mâm vuông...
    Dấu vết cột chống trời ngày nay người ta cho là ở núi Thạch Môn, thuộc về tỉnh Sơn Tây, Bắc Việt cũng gọi là núi Không Lộ (Ðường Lên Trời) hay Khổng Lồ hoặc là Kình Thiên Trụ (Cột Chống Trời). Dân chúng còn câu hát lưu hành nhắc nhở đến công việc của ông trụ trời vào thuở khai thiên lập địa:
    Nhất ông đếm cát,
    Nhì ông tát bể,
    Ba ông kể sao,
    Bốn ông đào sông,
    Năm ông trồng cây,
    Sáu ông xây rú,
    Bẩy ông trụ trời".
    Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Hóa Toàn Thư tr.66)
    Bài hát này kể các vị thần làm việc lúc khai thiên lập địa không theo thứ tự sinh đẻ.
    3. Thần Thoại Mán
    Thần thoại Mán nói về vũ trụ tạo sinh có kể rằng khi trời đất còn mù mờ đầu tiên có hai người xuất hiện là Nhiêu vương và Bàn Cổ. Hai con mắt của Nhiêu vương sinh ra mặt trời, mặt trăng. Còn loài người do tâm của Bàn Cổ sinh ra trong đó có Bàn Vũ. Bàn Vũ sau là tổ người Mán (Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Hóa Toàn Thư tr.131).
    Ở đây ta thấy người Mán, một tộc Nam Man nhận đích danh Bàn Cổ là ông tổ của mình. Người Trung Hoa gọi chúng ta là Nam Man đã bóp méo nghĩa từ man đi gắn thêm nghĩa thóa mạ là mọi rợ vào. Man của Hừng Việt có nghĩa rất cao đẹp (có bài viết riêng về Man Di). Ở đây chỉ xin nói qua loa một chút thôi. Về ngữ học Mán, Mường, Mọi... đều là man cả. Thời thái cổ chúng ta là Man, là Mán, là Mường... Theo b=m ta có bàn = màn = man. Vậy Bàn cổ = man cổ = Man tổ. Ta đã biết bàn, ban, bang là đỏ vậy man cũng hàm nghĩa là đỏ. Man là Xích quỉ! Nam man là Xích quỉ phương Nam. Bàng Cổ là tổ của (Nam) Man, Xích quỉ thì đúng đứt đuôi con nòng nọc rồi.
    Với đầy đủ chứng tích vừa kể, rõ như ban ngày Bàn Cổ là do Mẹ Trứng Vũ Trụ Thần Nông hay Thần Nang đẻ ra và là tổ của Hừng Việt Xích quỉ. Anthony Christie trong Chinese Mythology, Library of The World s Myths and Legends, đã hai lần xác quyết trứng vũ trụ và ông Bàn Cổ là của Nam Man: "These stories are late in the versions... and it is likely that the tradition of their southern origin is basically correct..." (p.55) ("Những truyện này muộn trong những tường thuật... và giống như là gốc gác từ miền nam của truyền thuyết có cơ bản là đúng...") và "The most extensive account of the creation, involving a giant called Pangu has survived only in texts from the third to sixth centuries A.D. and there is a good reason to think that this story was not incorporated into Chinese Tradition until after the assimilation of the southern region" (p.51) ("Cái đáng kể về tạo sinh sâu rộng nhất liên can tới một ông khổng lồ gọi là Bàn Cổ chỉ còn thấy trong các bài viết từ thế kỷ thứ 3 tới thứ 6 sau Tây Lịch và có lý do chính đáng để nghĩ rằng truyện này không được đưa vào truyền thuyết Trung Hoa cho tới sau khi đã đồng hóa miền nam.") (tr. 51).
    BÀN CỔ VÀ TRIẾT THUYẾT ÂM DƯƠNG
    Trong nghệ thuật tạo hình cổ Trung Hoa, Bàn Cổ thường được mô tả là một người lùn, hình thù cổ quái, cầm trong tay cái trứng hỗn mang Âm Dương.
    Hình: Bàn Cổ cầm trong tay trứng Hỗn Mang (Chaos) Âm Dương, sống 18.000 năm. Thạch bản, thế kỷ 19, Bảo tàng Viện British, London.
    Ðây cũng là một cái "dấu đầu lòi đuôi" của những kể nhận vơ của người khác làm của mình. Theo truyền thuyết Trung Hoa thì Bàn Cổ là một ông khổng lồ, mỗi ngày cao ba mét làm trụ chống trời. Hãy làm một con tính nhỏ, ta thấy trong 18.000 năm, Bàn Cổ cao 19.440 km (tính theo tháng âm lịch có ba mươi ngày). Trong khi đó trong các tranh vẽ, tượng, đồ gốm... Bàn Cổ là một lão lùn tịt dị dạng. Truyền thuyết và hình tượng không ăn khớp với nhau, lệch lạc, rõ ràng trống đánh xuôi kèn thổi ngược, ăn vụng không biết chùi mép.
    Vì là con Mẹ trứng Không gian Thần Nông nên Bàng Tổ cầm trong tay trứng vũ trụ. Ðây là cái trứng hỗn mang (Chaos) có hai phần Aâm Dương tạo sinh ra trời đất. Ðây là nền móng của triết thuyết Aâm Dương mà từ xưa tới nay Ðông Tây vẫn cho là của Trung Hoa. Không. Trăm phần trăm là không phải người Trung Hoa sáng tạo ra thuyết Yin Yang. Người Trung Hoa đã lấy Thần Nông, đã lấy Bàn Cổ tất nhiên họ lấy luôn triết thuyết Âm Dương của Hừng Việt Nam Man thờ mặt trời.
    Thật vậy chúng tôi đã khám phá ra những chứng tích nguồn cội, căn bản của thuyết âm dương còn rành rành ở các địa danh nơi đất tổ Lạc Việt cũng như như thấy ở truyền thuyết của các tộc khác thờ mặt trời họ Hồng Bàng.
    Việt Nam
    Mẹ trứng vũ trụ Thần Nông, Thần Nang là Âm. Trứng là tiêu biểu cho phần sinh dục nữ. Cái trứng hay noãn nang, dạ con, lỗ sinh đẻ phái nữ đều có hình hay được biểu thị bằng hình tròn hoặc chữ o tròn như quả trứng gà (với nghĩa thuôn tròn) hay chữ "o lớn" "omega" của Hy Lạp ví dụ trứng là tròng gần cận với tròn ; dạ con tương đương với lòng (lòng dạ là từ ghép điệp nghĩa) mà lòng = tròng như thế lòng, tròng gần cận với tròn; bộ phận sinh dục nữ l... có từ lỗ và cũng gần cận với lòng (dạ); Latin ovum , trứng, Anh ngữ oology , trứng học...; Pháp ngữ oeuf , trứng... đều khởi đầu bằng chữ o; Anh ngữ womb , dạ con có wom(b)= wom = vòm (khum tròn); dạ con của người trông giống và được diễn tả bằng chữ omega (sẽ có bài viết riêng)... Không gian và mặt trời khi biểu thị bằng hình tròn đều mang tính âm và đều là mẹ trứng vũ trụ và mẹ mặt trời, mẹ tròn (đi đôi với con vuông) và về toán học mẹ trứng không gian, mẹ trời hình đĩa tròn được biểu thị bằng con số không zéro.
    Tóm lại chữ o, omega, vòng tròn, hình trứng (hình trái soan), hình vòm, cái lỗ biểu hiệu cho Âm.
    Ông Bàng Tổ Trụ Trời với hình ảnh cái trụ chống mang hình ảnh và ý nghĩa đực hay Dương. Theo cách đọc Cổ Việt ch=tr mà một vài vùng ở Bắc Việt ngày nay còn nói, ta thấy chống (trụ) là trống (đực) như gà trống. Chống liên hệ chông (que nhọn) với chồng (ngược với vợ). Cái trụ, cái chống, cái nọc, cái nõ, cái cọc, cái que, cái cây là biểu hiệu cho bộ phận sinh dục nam, cho đực cho Dương. Ông Bàng Tổ Trụ Trời là yếu tố Dương. Về toán học ông trụ trời mang hình ảnh cái que được biểu thị bằng một cái gạch đứng như cái que, cái trụ tức là số 1. Khi nói trời là số một là ta đã nói tới trời với yếu tố Dương, phụ quyền đã lấn áp mẫu quyền.
    Xin giải thích tại sao trời, vũ trụ nhiều khi dùng lẫn lộn, lúc có nghĩa là không, lúc có nghĩa là một. Thoạt đầu con người thờ Mẹ Nang, Mẹ Trời đĩa tròn sau đó với thời gian có sự "cướp quyền" giữa phụ quyền (phụ hệ) và mẫu quyền (mẫu hệ) nên đã có sự hoán đổi nghĩa trời tròn với tính phái âm nghĩa là số không với trời có nghĩa dương tức số một. Ta thấy những tộc khi còn thờ mẹ vũ trụ, mẹ trời thì trời là số không còn khi đã không còn thờ mẹ trời nữa mà chuyển qua thờ cha trời thì gọi trời chuyển sang nghĩa là một. Ví dụ các tộc Ấn Âu như Pháp, Anh, Ðức... không thờ mẹ trời nên gọi vũ trụ không gian là universe, univers, universum có un, uni có nghĩa là một; gọi mặt trời sun (Anh), soleil (Pháp), sonne (Ðức), sol (Tây Ban Nha), sole (Ý), sol (Bồ)... liên hệ với solo, seulement, solamente, sólo (Tây Ban Nha) solo, soltanto (Ý), só, somente (Bồ)... (một mình); Trung Hoa không thờ mẹ trời nên gọi không gian là vũ trụ với trụ là que là một. Trong khi đó chúng ta gọi không gian là nông, nang, tròng, lòng, trứng, không... hàm nghĩa số không. Chúng ta gọi trời là mặt cùng vần với mắt mà mắt là tròng, là tròn biểu thị bằng vòng tròn như con số không. Mặt cũng cùng vần với mất là không còn gì; với mất là chết mà chết là hết, là trở về hư vô (tức là số không).
    Cái trứng tròn Âm và cái trụ chống trời Dương hòa hợp lại sinh ra vũ trụ muôn loài. Cái trứng vũ trụ âm không có "chống" (hai nghĩa) không tạo sinh, sinh nở được. Ðây là nguyên lý sâu sa của sự tạo sinh ra nhân vật Bàng Tổ Trụ Trời.
    Trở lại truyền thuyết Ông Trụ Trời của Việt Nam. Dấu vết cột chống trời ngày nay người ta cho là ở núi Thạch Môn, thuộc về tỉnh Sơn Tây, Bắc Việt cũng gọi là núi Không Lộ (Ðường lên trời) hay Khổng Lồ hoặc là Kình Thiên Trụ (Cột chống trời). Núi này thuộc tỉnh Sơn Tây nằm đâu đó gần núi Tản Viên. Chúng ta đã biết theo một nghĩa Tản Viên là núi Trứng (tản, đản là trứng, chúng ta thường ăn phì tản , trứng đen ngâm thuốc Bắc trong món bát bửu đồ lạnh hay ăn với bún thang; đản bạch là lòng trắng trứng). Ðiểm này giải thích tại sao gọi núi Tản là Viên. Hiển nhiên Viên có một nghĩa là tròn. Tản Viên là Trứng Tròn.
    Như vậy núi Tản Viên Trứng Tròn biểu tượng của mẹ Trứng Vũ Trụ Thần Nông và núi Kình Thiên Trụ biểu tượng cho ông Bàng Tổ Trụ Trời là hai yếu tố âm dương cốt lõi của vũ trụ quan của chúng ta.
    Mặt khác chúng ta thường nghe giải thích Tản Viên là cái núi hình tán vì núi trông như cái lọng. Ðiều này cũng không sai vì tán lọng cũng có nghĩa là trứng vì phần trên tròn hay khum tròn như mặt trời hay vòm trời. Trong các đền thờ của chúng ta ngày nay còn thờ lọng đỏ biểu tượng cho mặt trời, vòm trời. Ta cũng có thể kiểm chứng lại bằng ngữ học. Tán là lọng mà lọng gần cận với lòng, tròng nghĩa là với trứng. Ta cũng có cái ô (dù) ruột thịt với tán, lọng. Trong từ ô có chữ o tròn như quả trứng gà, nghĩa là ô cũng như lọng có hàm nghĩa trứng. Trong bài "Cái Ðầu Lâu Hoa Cái Nhà Mày" khi nói đến từ mắt, chúng tôi có nói ô (lỗ nhỏ để nhìn như cửa ô) liên hệ với mắt. Mà mắt là tròng, trứng do đó ô liên hệ với trứng, với mặt trời tròn.
    Như thế Tản Viên dù hiểu theo nghĩa lọng, tán cũng có nghĩa là trứng biểu tượng cho Mẹ Trứng vũ trụ Thần Nông.
    Ngoài ra núi Tản Viên còn gọi là núi Nùng. Nùng là chuyển hóa với nòng, lòng, tròng nghĩa là trứng. Nùng còn có một nghĩa nữa là một (Thái ngữ nung là một), sẽ khai triển ở một dịp khác.
    Trứng Tản Viên và Kình Thiên Trụ đã kết hợp lại tạo ra vũ trụ, dòng giống Việt.
    Nhật Bản
    Theo truyền thuyết, sau khi đứng trên cây cầu nổi trên trời dùng cái giáo quậy biển, khi nhấc lên những giọt nước rơi xuống tạo thành những hòn đảo nước Nhật ngày nay, hai anh em Izanagi và Izanami xuống đảo. Họ dựng một cây trụ trời và rồi hai người đi vòng quanh ngược chiều với ý định nếu gặp nhau họ sẽ lấy nhau...
    Hai người đã đi giáp một đường hình vòng tròn. Khi gặp nhau người con gái mừng rỡ mở miệng gọi người con trai trước khiến Izanagi tức giận nên kết quả họ sinh ra hai người con tật nguyền và họ từ bỏ. Hai người về trời trở lại. Thần cho biết đó là do lỗi người con gái mở miệng nói trước và khuyên là lần này xuống đất Nhật phải để người con trai nói trước. Hai người làm đúng theo lời thần dặn nên đẻ ra đầy đàn con cháu trong đó có Oh-yashima-guni (Ðất-Tám Ðảo-Vĩ Ðại, tên cổ của nước Nhật).
    Ở đây ta cũng thấy cái trứng do hai người đi vòng quanh và cây trụ. Nhưng đã viết theo tính trọng nam khinh nữ của người Nhật. Cái trụ trồng trước đi theo hình vòng tròn sau và con gái mở miệng nói trước, tỏ tình trước với trai là con gái hư.


    ---------- Post added at 11:21 AM ---------- Previous post was at 11:20 AM ----------

    Chúng tôi cũng đã khám phá ra dấu tích của mẹ Trứng Vũ Trụ Thần Nông và Bàn Cổ trên trống đồng Ðông Sơn (sẽ viết rõ trong Bí Mật Trống Ðồng Ðông Sơn).
    Như thế vũ trụ quan của chúng ta nói riêng của Hừng Việt nói chung cho thấy vụ trũ trời đất, con người sinh ra từ yếu tố âm là Mẹ Trứng Thần Nông hay Thần Nang và yếu tố dương là Bàng Tổ Trụ Trời.
    Ðể kết thúc chúng tôi xin vén tấm "nhiễu điều phủ lấy giá gương" hé mở cho thấy cái bóng của Âu Cơ và Hừng Vương trong tấm gương Thần Nang Bàng Tổ.
    Thần Nang Bàng Tổ tạo sinh ra vũ trụ, đất trời, trần thế, con người, Xích quỉ. Còn Âu Cơ đẻ ra Hùng Vương và các dòng vua cai trị nhân gian con người, Xích quỉ. Thần Nang là hình, Âu Cơ là bóng của Thần Nang. Cả hai đều là trứng tạo sinh. Bàng Tổ là hình, Hừng Vương là bóng của Bàng Tổ. Hãy đối chiếu vài điểm tương đồng giữa Bàng Tổ và Hừng Vương:
    Bàng Tổ và Hừng Vương đều từ trứng đẻ ra
    Bàng Tổ và Hừng Vương đều có nghĩa là tổ Ðỏ.
    Bàng Tổ và Hừng Vương người sống 18.000 năm hay 18 thiên kỷ, kẻ có 18 đời. Cả hai gặp nhau ở con số 18.
    Bàng Tổ là bình minh của vũ trụ trời đất, thế gian; Hừng Vương là rạng đông của Việt tộc, của Man, Mán, Mường... của Xích quỉ, con người v.v...
    Tóm lại Bàn Cổ, Bành Tổ, Bàng Tổ là ông Trụ Trời, sinh ra thế gian và con người là của Nam Man Hừng Việt, là ông tổ Ðỏ của họ Hồng Bàng. Chúng ta còn chứng tích rành rành của Bàng Tổ nơi đất tổ lập quốc là núi Thạch Môn, Không Lộ, Kình Thiên Trụ ở tỉnh Sơn Tây.
     
  8. thần nông là thủy tổ của người việt cái này sử sách việt đã có ghi chép, việc thần nông của trung quốc được ghép vào nhóm tam hoàng là chuyện hết sức bình thường vì các nước á đông có tục thờ nông thần rất phong phú, bằng chứng là các dân tộc miền núi có tục thờ thần lúa, thần đất... mà biể hiện tới tận ngày nay là trên chiêng cồng và bậc nên xuống sàn nhà, Còn sử thi về vị thần việt nam mà phân chia trời đất chia núi tạo sông chính là thần trụ trời nhưng danh tính chẳng rõ ra sao âu cũng là do chiến tranh binh lửa sử liệu bị thiêu đốt khó ma tránh khỏi được
     

Chia sẻ trang này