Lời tâm sự : Kính thưa anh chị em, mỗi khi thấy một thanh đồng bắc ghế hầu chầu đệ tam mà cung văn dâng văn lại trùng với thánh mẫu đệ tam, điều này làm bản thân Trí Minh băn khoăn lắm, có người giải thích ngài là ảnh của Đệ tam Thánh Mẫu, nhưng khi xem lại thần tích 3 vị thánh chầu còn lại thì thấy các ngài không trùng thần tích. Vậy chầu đệ tam là ai, ngài giáng sinh chưa, hiện nay thờ ở đâu, thần tích ra sao là một câu hỏi lớn. Lật tìm thần tích của các nữ thần trong số hàng nghìn bản thần tích thì thấy "Truyện người con gái Nam Xương" và thần tích đền Vũ Điện huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam là gần với thần tích thánh mâu đệ tam hơn cả. Có lý nào Vũ Điện Thần Nữ phu nhân Vũ Thị Thiết người con gái tiết hạnh và oan khuất phải trầm mình xuống dòng Hoàng Giang (tên gọi của sông Hồng) để thể hiện lòng trinh tiết, rồi cảm nỗi lòng đó ngài được về hầu cận chốn long cung. Có thể nào ngài chính là thánh chầu đệ Tam không với một nỗi oan gần giống như nỗi oan của Đệ Tam Thánh Mẫu. Trí Minh không dám chắc nhưng xin cứ post lên đây để chúng ta cùng tham khảo, nếu anh chị em nào sư tầm được bản thần tích của vị nữ thần sông nước nào xin chia sẻ để cùng suy ngẫm về một vị thánh chầu nổi tiếng.
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương (1). Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng. Trương tuy con nhà dòng, nhưng không có học, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lúc chàng ra đi, bà mẹ có dặn rằng: - Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được. Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng thì rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng: - Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An (2), nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về. Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó chén đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu, ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Bấy giờ nàng đã đương có thai. Sau khi tương biệt được mươi ngày thì sinh một đứa con trai, đặt tên là thằng Đản. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mỗi khi thấy bướm bay vườn thúy, mây ám non Tần, nỗi buồn hải giốc thiên nhai, lại không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng ma gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Song bệnh thế mỗi ngày một trầm trọng hơn, bà mẹ trối lại với nàng rằng: - Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ. Bà cụ nói xong rồi thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra. Qua sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ đi thăm, song đứa bé không chịu, gào khóc. Sinh dỗ dành: - Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi! Đứa con nói: - Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít. Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nói: - Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được. Về đến nhà, mắng vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng: - Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp. Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể lời con nói; chỉ thường thường mắng mỏ nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói: - Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa (3). Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang (4) ngửa mặt lên trời mà than rằng: - Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương (5), xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ (6). Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Nói xong gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một mình phòng không vắng vẻ, đến đêm khêu bấc đèn tàn, không sao ngủ được. Chợt đứa con nói rằng: - Cha Đản lại đến rồi! Chàng hỏi đâu. Nó trỏ bóng chàng ở trên vách: - Đây này! Thì ra khi chàng đi vắng, nàng thường đùa trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới hiểu ra nỗi oan của vợ, nhưng đã chẳng làm gì được nữa. Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang khi trước làm đầu mục bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, nhân đem phóng sinh con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải. Chi Lăng (7). Phan và người làng sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang giạt vào một cái động rùa ở hải đảo, bà Linh Phi trông thấy nói rằng: - Đây là vị ân nhân cứu sống cho ta xưa đây. Linh phi bèn sai lấy khăn gấm mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang liền tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đài dao, nguy nga lộng lẫy không biết là mình đã lạc vào trong thủy tinh cung, Linh Phi bấy giờ mặc tấm áo cẩm vân dát ngọc, đi đôi giày mầu ráng nạm vàng cười bảo Phan rằng: - Tôi là Linh Phi trong Quy động, phu nhân của Nam Hải Long Vương. Nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông, bị người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời có ý cho tôi một dịp đền ơn báo nghĩa. Phi bèn đặt yến ở gác Triệu Dương để thết đãi Phan Lang, dự tiệc còn có vô số những mỹ nhân bận quần nhẹ và búi tóc xễ. Trong số có một người, mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trông rất giống Vũ nương. Phan thường nhìn trộm luôn, nhưng không dám nhận. Tiệc xong, người ấy bảo với Phan Lang rằng: - Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã coi nhau như khách qua đường xa lạ rồi ư? Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ nương. Gạn hỏi duyên do. Nàng nói: - Tôi ngày trước không may bị người vu báng, phải gieo mình xuống sông tự tử. Chư tiên trong thủy cung thương tôi vô tội, rẽ một đường nước để cho tôi được khỏi chết, nếu không thì đã chôn trong bụng cá, còn đâu mà gặp ông. Phan nói: - Nương tử nghĩa khác Tào Nga (8), hờn không Tinh Vệ (9) mà có mối hận gieo mình nơi sông. Nay thấm thoát đã một năm chầy, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư! Vũ thị nói: - Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về gặp mặt chồng! Phan Lang nói: Thưa nương tử, tôi trộm nghĩ, nhà cửa của tiên nhân, cây cối thành rừng, phần mộ của tiên nhân, cỏ gai lấp mắt. Nương tử dầu không nghĩ đến, nhưng còn tiên nhân mong đợi ở nương tử thì sao? Nghe đến đây, Vũ nương ứa nước mắt khóc rồi nói: - Tôi có lẽ không thể gửi mình ẩn vết ở đây mãi được. Ngựa Hồ gầm gió bắc (10), chim Việt đậu cành nam (11). Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày. Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía đựng mười hạt minh châu, sai Xích Hỗn (12) sứ giả đưa Phan ra khỏi nước; Vũ nương cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn: - Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về. Về đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với nhà Trương. Ban đầu Trương còn không tin. Nhưng sau nhận được chiếc hoa vàng, mới kinh sợ nói: - Đây quả là vật dùng của vợ tôi xưa thật. Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói với vào: - Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa. Rồi trong chốc lát, những cảnh tượng ấy chìm đi mất Người làng lập một ngôi Miếu bên sông để thờ nàng, sau nàng âm phù cho vua Lê Thánh Tông đánh thắng giặc Chiêm Thành, khi về qua Vũ Điện đức vua có làm bài thơ đề Miếu Vợ chàng Trương và sắc phong thần đồng thời ban tiền xây dựng đền miếu thêm trang nghiêm. Phải chăng đây là thánh chầu đệ tam. Một vị thần ngự ở hạ lưu sông Hồng dưới đề Dầm của đệ tam thánh mẫu.
Vũ thị thiết khác hoàn toàn với chầu đệ tam . Trong những cây văn cuối của bản văn thánh mẫu đệ tam có câu Khì vũ thị hảo tùy một tiết Chàng truơng chẳng biết ngay gian Bóng đèn nghe trẻ nói oan Làm cho . . . . . . Đièu đó chứng tỏ vũ nuơng là 1 nhân vật khác . Và vũ nuơng là vị thánh k thuộc tứ phủ . Đó là điều chắc chắn . Vì k có bản văn chầu đệ tam nào nói như vậy . Và thần tích trên k nhắc tới việc vũ nuơng được suy tôn ntn . Đó chỉ là 1 câu truyện trong truyền kì mạn lục của nguyễn dữ
Con đọc lại lời phi lộ đi, có ai khẳng định Vũ Thị Thiết là chầu đệ tam đâu. Còn việc sắc phong thì không có vị thánh chầu nào được sắc phong ghi rõ là chầu thứ bao nhiêu cả con ạ. Nếu truyền kỳ mạn lục là truyện ghi chép lại thần tích của các đền mà thôi. Vì không có thần tích đền Vũ Điện ông Nguyễn Dữ cũng không có cơ sở để viết truyện người con gái Nam Xương, con hiểu vấn đề chứ. COn đọc kỹ lại lời phi lộ đi, văn chầu đệ tam đều mượn của Thánh Mẫu đệ tam cả sao chúng ta không suy nghĩ điều này nhỉ.
Nhiều lúc em nghe văn cũng thấy thắc mắc chuyện này. Sao chầu bà và thánh mẫu đệ tam lại dùng chung 1 bản văn, vậy bản thần tích của mẫu và chầu giống nhau thì hóa ra là 2 người cũng 1 bản thần tích àh??? Mọi người lên tiếng về chuyện này đi.
Cái này chắc phải người có duyên được nói chuyện với các ngài. Chỉ có điều được bao nhiêu người tin thôi
Bạn ơi đoạn văn trên đâu có nói vũ thị khác chầu thoải đâu mà văn thánh mẫu có đề cập đến vũ thị thì đáng nhẽ phải càng có khả năng là ngài chứ.