[ Thần tích ] Quan Lớn Đệ Tam

Thảo luận trong 'Thần tích vị Thánh Tứ Phủ' bắt đầu bởi kuangtuan, 8/6/11.

Lượt xem: 18,520

  1. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    IMG_2082.jpg

    Quan Lớn Đệ Tam


    Đền Lảnh Giang (nhân dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo Thần Phả, Đền này thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.


    Căn cứ vào thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (sự tích ra đời một vị thuỷ thần triều vua Hùng(() Thần tích này do Bát phẩm thư lại Nguyễn Hiền, tuân theo bản cũ triều trước, chép lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Thần tích đang được lưu giữ tại Đền Lảnh.) cùng các sắc phong, câu đối, cũng như truyền thuyết địa phương thì lịch sử ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương được thờ ở Đền Lảnh Giang như sau:

    Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà tuổi đã cao mà vẫn chưa sinh được một mụn con nối dõi.

    Một đêm trăng thanh gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.

    Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm bên bờ sông và thuồng luồng đã bỏ đi. Từ hôm đó nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

    Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:

    Sinh là tướng, hóa là thần

    Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời

    Khi nào giặc dã khắp nơi

    Bọn ta mới trở thành người thế gian(1)

    (1)Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.).

    Bấy giờ Thục Phán – thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng, thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thuỷ bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Vua Hùng liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, 5 đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.

    Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.

    Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Phạm Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, ban cho dân 10 hốt vàng để mua ruộng đất, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.

    Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình.

    Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7, ngày 18 tháng 10 có chép: “Sắc cho xã An Lạc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam phụng thờ Trấn An Tây Nam Tam Kỳ Linh ứng triều Hùng thiêng liêng rõ rệt, trước đây chưa có dự phong. Gặp nay trẫm vâng chịu mệnh lớn, nghĩ đến công thần biểu dương phong cho vị thần, phò giúp nền nếp quốc gia, cho phép y theo lệ cũ kính thờ”.

    Hàng năm tại Đền Lảnh Giang, nhân dân địa phương tổ chức 2 kỳ lễ hội chính vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Theo tục lệ địa phương thì kỳ lễ hội tháng 6 là để dành cho các khách thập phương, còn kỳ lễ hội tháng 8 chủ yếu dành cho các khách quanh vùng. Những ngày này thường gặp nước sông Hồng dâng cao nhưng lòng dân vẫn hướng về ngày lễ hội. Có nhiều năm nước ngập nhưng các thiện nam tín nữ cùng nhân dân bản địa vẫn bơi thuyền ra đền dâng lễ và thực hiện đầy đủ các nghi thức để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần họ Phạm, Tiên Dung và Chử Đồng Tử.

    Cụ Bùi Bằng Đoàn(() Cụ Bùi Bằng Đoàn (1886 – 1953) là người xã Liên Bạt, huyện Sơn Lăng tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây). Cụ đỗ Cử nhân năm Thành Thái thứ 18 (1906), làm Thượng thư Bộ Hình. Sau Cách mạng tháng tám 1945, cụ được làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bài thơ này cụ viết vào tháng 2/1907.) khi viết về công lao đánh giặc của ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương thờ tại Đền Lảnh Giang trong tập sách “Giang Sơn cổ tích đề vịnh”, có bài thơ như sau:

    “Hùng gia quý thế tam huynh đệ

    Phạm tộc giang hương phả tượng truyền

    Phá tặc an dân nhân dĩ viễn

    Anh thanh thiên cổ nguyệt cao huyền”.

    Dịch là:

    Anh em ba vị cuối triều Hùng

    Họ Phạm quê nhà xóm bãi sông

    Đánh giặc cứu dân người đã khuất

    Còn nêu sự nghiệp sáng trăng trong.

    Trong báo cáo ngày 16/5/1996, cơ quan Bảo tàng lịch sử tỉnh Nam Hà (cũ) có nhận xét: Đền Lảnh Giang là di tích thờ ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Duệ Vương có công lao đánh giặc Thục, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Khi đất nước thanh bình, các ông là những người quan tâm, chăm lo đến sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ngày một ấm no hạnh phúc... Đền Lảnh Giang là công trình kiến trúc quy mô, uy linh, bề thế, mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc và xây dựng cổ truyền của dân tộc. Tại đây còn giữ được nhiều cổ vật thờ cúng có giá trị cao về nghệ thuật.

    Từ những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cổ truyền dân tộc của Đền Lảnh Giang, ngày 5/11/1996, Bộ Văn hóa Thông tin đã cấp bằng công nhận đền Lảnh Giang là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
    (Sưu tầm tại http://daomauvietnam.com)
     
    Last edited by a moderator: 19/7/19

    Bình Luận Bằng Facebook

  2. cunbi156

    cunbi156 New Member

    A Di Đà Phật
    đền quan linh thiêng quyền sinh quyền tử trong tay quan
    con sám hối cửa quan quan phê chữ đỏ quan bỏ chữ đen cho em trăm sự tốt vạn sự lành
     
  3. cuongetb

    cuongetb New Member

    Dạ lạy quan, nhà con may mắn được thờ quan, còn nhiều điều chưa đúng, xin quan đại xá
     
  4. ledung1709

    ledung1709 Member

    mình thấy cứ như thế nào ấy các bạn cứ nghe văn quan đệ tam mấy cả thần tích quan đệ tam chăng giống nhau gì cả
     
  5. chuotmi

    chuotmi Member

    Nhà bạn chỉ thờ riêng Quan Tam thôi à? Tớ tưởng thờ thì phải thờ hết tứ phủ chứ?

    ---------- Post added at 11:51 PM ---------- Previous post was at 11:51 PM ----------

    Khác nhau như thế nào bạn ơi
     
  6. ledung1709

    ledung1709 Member

    Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ. Hay còn gọi là Tam Phủ Vương Quan (Tam Phủ ở đây không phải là số lượng Phủ mà ý chỉ Thuỷ Phủ là phủ thứ ba trong hàng Tứ Phủ, vậy nên còn có thể gọi là Bơ Phủ Vương Quan). Quan lớn vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương.
    Dưới thời Hùng Vương, theo lệnh vua cha, ông cùng hai người em (có sách nói là hai người thân cận) lên giúp Vua Hùng chỉ huy thuỷ binh, lúc này ba vị giáng ở đất Hà Nam, được nhân dân tôn thành “Tam Vị Đại Vương”, trong đó, Quan Đệ Tam là người anh cả trong ba người. Nhưng lại có điển tích nói rằng, chỉ có một mình Quan Tam Phủ giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương, ông trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thuỷ lục. Sau đó trong một trận quyết chiến, ông hy sinh (phần thượng thân (đầu) và hạ thân (mình) trôi về hai bên bờ con sông Lục Đầu). Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan (vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng). Khi thanh nhàn ông truyền ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền, trên sông dưới suối, phù hộ cho ngư dân.

    Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng).

    Trong hàng quan lớn, vì danh tiếng bậc nhất nên Quan Lớn Đệ Tam cũng được lập đền thờ phụng ở khắp nơi. Nhưng đầu tiên phải kể đến Đền Lảnh Giang ở Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam (gần Hưng Yên) tương truyền là nơi hạ thân của ông trôi về, sau đó phải nói đến Đền Xích Đằng cũng thuộc Hà Nam (hai ngôi đền này chỉ cách nhau cây cầu Yên Lệnh nối hai bờ sông Lục Đầu) là nơi thờ thượng thân của ngài. Ngoài ra còn có Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (gần Đền Mẫu Thoải), Đền Lâm Du thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội và Đền Tam Kì thuộc thành phố Hải Phòng (gần bến xe Tam Bạc). Ngày tiệc của Quan Bơ Phủ là ngày 24/6 âm lịch (tương truyền là ngày đản nhật giáng sinh của ông). Vậy nên trong văn hát câu rằng:
     
  7. chuotmi

    chuotmi Member

    Có ai biết chuyện gì về quan Tam kể em nghe với ạ, em muốn được tìm hiểu thêm.
     
  8. Dungvpp

    Dungvpp New Member

    mình cũng có căn Ngài Quan lớn đệ tam đấy, híc.... Thấy thầy bảo thế mà mình cũng không hiểu nhiều về Ngài! có ai biết gì thêm về Ngài chỉ mình với, mà đến đền thờ của Ngài thì khấn thế nào ạ,ai biết chỉ mình với, mình cảm ơn nhé!
     
  9. thanhthuy6

    thanhthuy6 New Member

    xin đính chính với bạn là: đền Xích Đằng thuộc phường Xích Đằng - Lam Sơn - TP Hưng yên nhé, đối diện bên kia sông Hồng là đền Lảnh Giang thuộc Mộc Nam - Duy Tiên - Hà Nam
     
  10. chuotmi

    chuotmi Member

    Căn mà thầy ban bảo là chính căn hay chỉ là sát giá thôi? Sao mà hic :D Quan Tam là quan cai đầu đồng phụ trách về các vấn đề căn số. Ví dụ việc căn quả, lễ lạt thế nào... Đương nhiên cái này là do nghiệp của mình và còn phụ thuộc cả hội đồng các Thánh, nhưng theo tớ hiểu thì lĩnh vực chính của Quan là thế, giống như xin duyên thì về cô Bơ hoặc học hành thi cử thì về Hoàng Mười. Những người căn quan Tam (thấy mọi người nói) hay có khả năng soi căn, vì quan Tam là quan cai đầu đồng.
     
  11. thanhthuy6

    thanhthuy6 New Member

    Đệ tam vương quan là người nắm sổ sinh, sổ tử trong tay bạn ạ
     
  12. hungthang999

    hungthang999 Member

    Bạn kuangtuan ơi, theo tôi đã có sự nhầm lẫn ở đây rồi. Ngài Phạm Vĩnh Đại Vương trong truyền thuyết bạn vừa kể ở trên chính là Vua Cha Bát Hải Động Đình chứ không phải Quan Lớn Đệ Tam đâu ạ. Bạn để ý kỹ sẽ thấy ngày mà ngài hóa là ngày 25-8 chứ không phải 24-6. Người ta nói "Tháng tám tiệc cha tháng ba tiệc mẹ" ý là muốn nói tháng 8 là tiệc của Vua Cha, trong đó có Đức Thánh TrầnVua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương Trấn Tây An Nam Tam Kỳ Linh Ứng Vĩnh Công Đại Vương Thượng Đẳng Tối Linh Thần.

    Quan Đệ Tam chính xác phải là 1 trong 10 vị tướng đã cùng Vĩnh Công Đại Vương lập lên chiến công chống lại nhà Thục, chứ không phải là Vĩnh Công Đại Vương đâu ạ. Đọc kỹ thần tích Đền Đồng Bằng sẽ thấy rõ điều này.
     
    Chỉnh sửa cuối: 23/7/13
  13. Dungvpp

    Dungvpp New Member

    Thầy bảo mình là sát căn quan lớn đệ tam, mình đi xem hầu đồng, mỗi lần đến giá Ngài là thấy mặt mày nóng lên, có khi còn chảy nước mắt nữa, còn căn của mình thầy bảo là căn cô chín, căn ông Hoàng Mười. Mình không hiểu lắm, bạn có thể nói rõ hơn cho mình về chuyện căn quả này được không? cả ngày mình nghĩ đến những chuyện hầu đồng, lễ bái... mà mình hay ốm lắm, toàn ốm vớ vẩn, thế mà hôm vừa rồi đi lễ Đền Quan lớn đệ tam ở Lảnh Giang về, ướt như chuột mà lại không đau ốm gì (bình thường chỉ dính mưa 1 tý la mình ốm rồi). thanks bạn!
     
  14. thanhlongvanhero

    thanhlongvanhero New Member

    Đính chính với bạn là đông cô 9 ghê quan hoàng mười..... Đồng cô 9 nhiều tài lắm lộc lắm phép nhiều tài .... ghê quan hoàng mười tài hoa khác thường, Ngài độ tài tiếp phúc ban danh cho trần gian đủ đầy
     
  15. Cảm ơn Bác đã chia sẽ thông tin bổ ích về dịch vụ và sản phẩm nay.
    thông tin đã rất rõ ràng và đầy đủ.
    Nếu em muốn hệ trọng với Bác thì theo số điện thoại nào ạ?
    Cảm ơn Bác nhiều nhà
     
  16. chuotmi

    chuotmi Member

    1. Thế này bạn nhé. Theo mình biết mỗi người có căn, chính căn chỉ có 1 vị ( ví dụ như tớ chính căn Quan Tam), còn sát giá hay hợp hay được ăn lộc... thì có nhiều, ví dụ tớ sát cô chín, cô bơ, hoàng mười,...

    Công đồng tứ phủ hay gọi là đạo Mẫu, thì có rất nhiều giá ( mỗi vị Thánh được gọi là một giá). Khi bạn thỉnh đến công đồng hay nếu bạn là người có căn thì việc căn số của bạn, hay gọi là việc Thánh thì đương nhiên do tất cả các ngài xem xét. Nhưng giá chính căn sẽ là giá cai bản mệnh, hay nói cho dễ hiểu là chịu trách nhiệm chính, là người trực tiếp phụ trách việc căn số của bạn. Còn các giá khác, các giá bạn sát hoặc hợp tùy mức độ sẽ có tác động khác nhau đến cuộc sống của bạn. Có nhiều người chính căn 1 giá nhưng lại được lộc chủ yếu của 1 giá khác. Ví dụ chính căn quan nhưng lại kinh doanh ăn lộc của cô Chín chẳng hạn... Làm ăn có gì khó khăn hay thế nào thì được cô báo cho là về kêu cô. Ví dụ thế. Nhưng giá chính căn dù sao vẫn rất quan trọng vì sẽ là giá phụ trách chính việc căn quả, ngoài sự xem xét của cả công đồng ra.

    2. Đọc bài của bạn ở topic nhờ giải đáp thắc mắc, tớ thấy bạn nói bạn đã xin khất và tình hình của bạn ngày càng tệ hơn. Tớ cũng ko biết gì về chuyện của bạn để kết luận nên ko dám nói gì. Tớ nghĩ bạn nên chia sẻ thêm việc bạn bị " bắt đồng" như thế nào, lễ khất như thế nào để mọi người có đầy đủ thông tin mới có thể chia sẻ về trường hợp của bạn. Bạn hay bị ốm vớ vẩn rất giống tớ :)

    3. Việc tụng kinh chỉ giúp làm mình tĩnh tâm lại, chứ ko giải quyết được vấn đề đâu bạn. Bạn có thể tụng kinh hay đi chùa 1 tg cho đầu óc thoải mái, tĩnh tâm để nhạy hơn trong việc tìm đương. Còn việc nào vẫn phải đi việc đấy nhé.

    Tiện đây cho tớ hỏi tớ có thấy bài của bạn viết về "đồng âm". Tớ hơi thắc mắc sao bạn lại hỏi thế. Trường hợp của bạn có gì liên quan hay bạn hỏi cho biết thôi.

    ( Lạy các Ngài nếu con có nói gì sai sót xin các Ngài đại xá cho con.)
     
    Chỉnh sửa cuối: 29/7/13
  17. chuotmi

    chuotmi Member

    Bài này khá hay, bạn có thể tham khảo:

    1- Tìm hiểu về chữ căn


    [​IMG]

    Căn vốn có nghĩa là gốc rễ (rễ cây),nó còn có nghĩa để chỉ căn do (nguyên nhân) của sự vật hiện tượng.Số là số mệnh,số phận của con người.Quả là kết quả có được theo Luật Nhân quả.Dân gian cho rằng số mệnh con người do con tạo xoay vần,do thiên cơ định sẵn ,nghĩa là do trời định.Đạo Phật không có quan niệm số mà chỉ có quan niệm về luật nhân quả :gieo nhân nào gặt quả đó, không có chuyện số phận do một thế lực siêu nhiên nào tạo ra.Thông thường người Việt Nam vẫn tin cả số mệnh và luật nhân quả.Vậy căn số có thể hiểu là số phận con người không phải ngẫu nhiên mà đã được định trước bị chi phối bởi quy luật nhân quả ( người ta còn gọi là căn quả). Luật nhân quả xét tới cả tiền kiếp và hậu kiếp. Khi xem xét tam kiếp (ba sinh): tiền kiếp-hiện kiếp- hậu kiếp (kiếp trước , kiếp này và kiếp sau gọi chung là ) Phật giáo giải thích được chuyện có người ăn ở lương thiện mà vẫn nghèo khổ, xui xẻo ,kẻ phá bĩnh làm việc ác mà vẫn sung sướng chưa bị quả báo là do họ vẫn còn nghiệp báo từ kiếp trước và quả báo chưa hiện ra trước mắt nhưng chắc chắn sẽ hiện ra

    2 Căn đồng số lính, căn tứ phủ..
    Căn đồng số lính có thể hiểu là số phận của 1 người đã được định sẵn là phải ra hầu thánh để làm lính,làm đồng bốn phủ.dĩ nhiên điều đó cũng tuân theo quy luật nhân quả:gieo nhân nào thì gặp quả đấy,dĩ nhiên cũng như gieo hạt giống thì đến lúc hạt nẩy mầm thành cây cây ra hoa kết quả thì cũng còn phụ thuộc vào hoàn cảnh vào tay người chăm sóc,Hạt giống đc chọn để gieo tuy ko phải giống tốt nhưng ngày nay bạn chăm sóc tốt cây vẫn có thể ra trái ngon và ngược lại.Bạn nghĩ xem nói về căn đồng số lính cũng có thể có trường hợp 1 người kiếp trước báng bổ thần thánh, phá hoại đền chùa ,không tin vào nhân quả,không thành tâm biết ơn các vị thần thánh..hay chế giễu những người đi lễ thành tâm nơi cửa thánh,cũng có thể họ thấy nam giới đi lễ họ chê cười thì kiếp này có thể họ lại phải đèn hương phụng sự,ra bắc ghế hầu thánh,.Điều gì cũng có thể sảy ra .Cũng có thể tiền kiếp tuy ta nhất tâm phụng sự cửa thánh nhưng chưa trọn vẹn thì kiếp này ta lại tiếp tục phụng sự.Và còn muôn ngàn căn do khác mà ta ko biết dc.Nhưng như mình đã nói dù hạt giống ko tốt nhưng nếu kiếp này ta sống tốt chăm sóc tốt cho cây của chúng ta thì nó cũng có thể ra hoa thơm quả ngọt.

    3, Mở phủ:
    Mở là mở đầu, phủ là nói về tín ngưỡng thờ tam tứ phủ. Tín ngưỡng thờ tam tứ phủ đặc trưng bởi nghi thức hầu đồng. Mở phủ chính là nghi lễ mở đầu để cho một người trở thành một đồng tử (con đồng).Thưc tê vẫn có những người mở phủ mà không hầu và không mở phủ nhưng vẫn hầu.Nhiều người làm lễ trình đồng tiễn căn, tức là trình lên tứ phủ để xin thần thánh xem xét về căn đồng của mình và xin tiễn căn ( thải đồng) hay nói nôm na là trả nợ tứ phủ rồi và xin trở lại là người bình thường không có đồng bóng gì nữa.Kết luận: căn mở phủ, căn đồng cũng có nghĩa như nhau

    [​IMG]

    4, Vị thánh cai đầu đồng và cầm bản mệnh . Người ta cho rằng mỗi người có một vị thần cai quản số mệnh của mình ( vị thần cầm bản mệnh). Mỗi tín ngưỡng, tôn giáo..lại có những vị thần khác nhau. Có thể vị thần cầm bản mệnh lại là chư Phật và Bồ Tát, hay các vị thần trong đạo giáo trung hoa như ngọc hoàng, nam tào tinh quân.....Cũng nhiều sách viết về vị thần cầm bản mệnh nhưng lại nói danh hiệu về các loài hoa như quế hoa công chúa, mai hoa công chúa..Trong tín ngưỡng thờ Mẫu tam tứ phủ các vị thần cầm bản mệnh hiển nhiên là các vị thần thuộc hệ thống tam tứ phủ.Các vị đó gồm quan lớn, chầu bà, thánh hoàng,thánh cô, thánh cậu...Các vị thánh Mẫu được coi là thần chủ của tín ngưỡng này và với hình tượng uy nghi các ngài được quan niệm là không cai bản mệnh của ai cả ( mặc dù thực tế vẫn có số ít các thầy bói phán căn mệnh của một người là căn Thánh Mẫu , hay có người tự nhận là căn Mẫu được Mẫu báo mộng này nọ...).Các vị thần cầm bản mệnh là cai quản căn số của một người. Các vị chấm đầu đồng cũng có vai trò tương tự nhưng là cai quản về căn đồng số lính của một đồng tử. Chấm đồng cũng giống như chấm lính bắt lính. Hình dung một người được các quan lại thời xưa chấm lính ( biên tên vào sổ đi lính) rồi sau đó đến thời hạn các quan lại bắt lính.Về đồng bóng các cụ xưa có câu:

    Chấm đồng từ thủa mười ba​
    Đến năm mười bảy phải ra trình đồng​
    Các con số có tính chất thí dụ không mang tính cố định, người ta có thể hát khác đi như:

    Chấm đồng từ thủa lên ba​
    Đến năm muời tám phải ra trình đồng​
    Nhiều người quan niệm về mối liên hệ giữa vị thánh căn mệnh của mình và số phận bản thân mình.Những quan niệm đó đa phần là truyền miệng và cũng không thuyết phục. Thí dụ như ghế cô bơ thì tình duyên trắc trở, căn ông bảy thì mê cờ bạc, căn chầu bé thì tính đành hanh, căn ông mười thì đỗ đạt làm quan to...

    Nếu xét về luật nhân quả thì quan niệm trên không đúng. Nhưng thưc tế rất nhiều người sau khi đi xem bói nghe nói mình căn ông bảy thì bắt đầu tập hút thuốc, căn cô chín thì muốn học tử vi để sau này bói, căn chầu lục thì tập ăn trầu... Mọi người đều muốn chững tỏ mình là căn vị thánh đó. Nhiều người nói là họ đua đòi là kệch cỡm. Nhưng xét cho cùng con nào cũng muốn giống mẹ giống cha. Nếu một người mộ một vị thánh nào đó thì cũng rất có thể vị thánh đó là vị thần cầm bản mệnh của họ, bởi lẽ đó cũng là nhân duyên.Mọi người rất muốn biết vị thánh căn mệnh của mình.Có người được mơ thấy thần thánh, đi xem bói, được người ngồi đồng phán bảo, xem trong sách, hay tự cảm nhận...Đối với riêng tôi để tìm vị thánh bản mệnh nên tìm hiểu hai chữ tâm linh có tâm thì ắt có linh

    5. Chữ đồng: Trong tín ngưỡng thờ Mẫu ( tôi không dùng từ đạo Mẫu) thì nghi lễ hầu đồng ( hầu bóng, hầu thánh, lên đồng...) là một nghi lễ quan trọng và mang tính đặc trưng. Từ đồng thường được viết dưới dạng chữ hán nôm là
    [​IMG]

    . Có nhiều cách giải thích về chữ đồng ( trong đồng bóng) và hầu hết đều cho rằng đồng là người được bóng thánh (hoặc linh hồn) ốp vào .Giải thích chữ đồng ở đây giống chữ đồng trong từ chỉ đứa trẻ con là vì khi hầu đồng thì người ngồi đồng giống như chiếc ghế để thánh ngồi ( từ cốt có nghĩa là xác, có thể quan niệm khi hầu thánh người ngồi đồng chỉ là xác để chư thánh điều khiển ).Khi đó người ngồi đồng không còn là chính mình nữa mà mang hình bóng của thần thánh (không quan niệm hồn thần thánh nhập vào và chỉ quan niệm bóng thánh ảnh vào mà thôi). Người ngồi đồng giống như đứa trẻ con thơ ngây trong sáng , quên đi cái tôi của mình mà hóa nhập vào hình bóng thần thánh.

    6.Các nghi lễ :tôn nhang bản mệnh-trình đồng tiễn căn- trình đồng mở phủ ( còn có trình đồng rồi khất một khỏag thời gian rồi mới ra hầu)
    Việc tôn nhang bản mệnh có thể làm với tất cả mọi người, những ai muốn tôn thờ vị thần bản mệnh để vị đó che chở có thể làm nghi lễ này. Cuốn lục thập hoa giáp có ghi vị thần bản mệnh theo 60 hoa giáp. Ứng với mỗi người tra năm sinh thì sẽ ra và không phân biệt hay ghi chú về việc có căn đồng hay không. Hơn nữa chữ đồng đâu liên quan khi một người tôn nhang bản mệnh. Thông thường khi làm lễ mở phủ người ta cũng làm lễ tôn nhang bản mệnh cho tân đồng, thường có một bát nhang để tân đồng mang về hương khói hoặc có thể gửi ở đền , điện..Nhưng cũng có người mở phủ mà không làm lẽ tôn nhang- họ cho rằng mở phủ là đã tôn thờ huơng khói tất cả chư vị tiên thánh rồi. Về căn đồng nhiều người giải thích là nợ tứ phủ và phải ra trình đồng để giả nợ. Nôm na là nợ đồng thì phải trình đồng.

    Có người trình đồng mở phủ và có người trình đồng tiễn căn. Trình đồng tiễn căn áp dụng với những người có đồng nhưng không có điều kiện để mở phủ ( vì sau lễ mở phủ người ta còn phải hầu đồng tiếp) hoặc không muốn mở phủ, hay quan niệm về nhẹ căn nhẹ số nên có thể không cần phải hầu còn người nặng căn nặng số thì bắt buộc phải ra. Trình đồng mở phủ xong thì người đó được gọi là tân đồng sau ba năm thì được coi là một thanh đồng thật sự thường thì trong ba năm đầu người ta có thể thay thầy đổi chủ, và khi đủ ba năm kể từ ngày mở phủ thì có thể coi là yên ổn và không nên mở phủ lại nữa. Các cụ có câu ba năm thử lính chín năm thử đồng có lẽ vì vậy mà sau mười hai năm ( một giáp đồng) thì người có khả năng hay gọi là có căn số làm quan thầy có thể làm một buổi lễ nhận sắc ấn để làm thầy thiên hạ. Nghi lễ trình đồng mở phủ và trình đồng tiễn căn tương đối giống nhau.Người ta thường bày bốn chum nước có dán giấy 4 màu đỏ xanh trắng vàng , tương ứng với bốn phủ thiên nhạc thủy địa ( dán vào thân chum hoặc nắp chum) .Lễ mở phủ thì có mở nắp chum còn lễ tiễn căn thải đồng thì không mở nắp.


    Nguồn: http://www.thugian360.com/index.php?threads/13747/
     
  18. thanhlongvanhero

    thanhlongvanhero New Member

    Đúng, tụng kinh trước hết là làm cho mình thoải mái nhẹ nhang hơn đôi chút, tính tình được hiền xuống... và k lẫn lộn việc này với việc khác được... cái gì nợ thì phải trả.... không trốn tránh... hãy tĩnh tâm thật tốt bạn nhé... để rồi hãy đưa ra phương án cho những kế hoạch mình sau này... chúc bạn thành công
     
  19. coixe

    coixe New Member

    hom nay minh vua di xem boi ve,thay thay bao la minh sat can Quan Lon De Tam qua,su thuc thi minh hay mo thay thap huong o den chua roi benh tat lien mien chua mai khong khoi,cuoc song thi vat va.Thay bao la minh nen den thap huong khan Quan Lon De Tam o Lanh Giang.Minh thi dang chuan bi co em be,cong viec va cuoc song qua kho va vat va minh rat muon di de co the thay doi cuoc song hien tai nhung hoan canh nen chua di luon duoc,theo ban thi minh nen lam gi.Cho minh loi khuyen voi
     
  20. chuotmi

    chuotmi Member

    Bạn có phải nick dungvpp ko?
     

Chia sẻ trang này