Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong tín ngưỡng dân gian

Thảo luận trong 'Giải đáp thắc mắc' bắt đầu bởi Trí Minh, 26/6/11.

Lượt xem: 4,380

  1. damquangvinh

    damquangvinh New Member

    Ngài đã thị hiện tại Hương Tích sơn làm đức Chúa Ba, một thái tử thiên tào đầu thai xuống trần làm công chúa (hơn hẳn Thánh Mẫu là công chúa thiên tào xuống trần làm con một nhà trưởng giả) rồi tu đắc đạo, hiếu hạnh vẹn tròn, thần thông quảng đại, bi nguyện đại từ vị thần nữ bồ tát này đã vượt trên các nữ thần khác để trở thành giáo chủ Đô Đàn. Đứng ngôi chứng minh tối cao của Tam phủ công đồng, tứ phủ vạn linh. Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong khoa cúng tử phủ phải thỉnh Đô Đàn giáo chủ trước tiên, trong tranh thờ dân gian Ngài cũng ngự trên cùng.



    ồ
    vị đứng ngôi tối cao chứng minh của tứ phủ vạn linh là 1 vị nữ bồ tát seo ??
    nên dùng từ Đức thế tôn là chuẩn hơn .
    quả vị bồ tát , phật thì đâu phân biẹt giới tính .
    đạo phật nguyên thủy cũng đâu chia giới tính .
    1 tư tưởng mang nặng tính ảnh hưởng tàu xì .
     
  2. damquangvinh

    damquangvinh New Member

    lạ thiệt
    đọc bài viết của phutrieu gì đó
    mà vẫn ko hiểu ông ta dựa vào đâu , nội dung nào của bài viết mà nói bồ tèo trí minh : hay mà chưa hay .thoáng qua mà chưa rõ bản chất .
    ko hiẻu .
     
  3. Trí Minh

    Trí Minh Active Member

    Trong chuỗi bài viết này Trí Minh xin gửi tới những ai quan tâm bản văn Công Đồng, đây là bản hát văn thờ thông dụng thường được dùng trong các nghi lễ hầu bóng của tín ngưỡng tam tứ phủ. Qua bản văn này chúng ta thấy được sự ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo trong tín ngưỡng dân gian của Việt Nam.
    Có thể nói rằng 2000 năm qua Phật giáo đã tồn tại và đồng hành cùng dân tộc đến nỗi tuy hai mà một. Không một ngóc ngách nào trong cuộc sống vật chất cũng như tâm linh của người Việt lại không chịu ảnh hưởng của tinh thần Phật giáo, dù có chỗ sâu sắc dù có chỗ chỉ mang màu sắc Phật giáo.
    Trong suốt 2000 năm đó Phật giáo khéo léo dung hòa như nước với sữa mọi tín ngưỡng bản địa phát sinh và nhuộm cho nó một màu sắc và triết lý nhân sinh đậm chất từ bi của Phật giáo để làm lên một đặc trưng riêng của Phật giáo Việt Nam.
    Khi mới du nhập vào nền văn minh lúa nước mà cư dân nông nghiệp vốn tôn sùng các vị thần nông nghiệp như mây mưa sấm chớp. Ngay lập tức bốn vị thần tối cao đó trở thành bồ tát của Phật giáo mà lại rất phù hợp với tinh thần ban vui cứu khổ của Phật giáo. Bốn vị thần phù hộ cho mùa màng tốt tươi nông nghiệp tức là ban vui cứu khổ rồi, hành bồ tát đạo rồi. Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện với hệ thống chùa tứ Pháp phát triển rộng khắp những nơi quần cư cư dân nông nghiệp của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Thật đúng với tinh thần trong kinh Dược Sư "Trước hãy cho ăn uống no đủ rồi mới cho ăn Pháp vị để lập thành người rốt ráo an vui".
    Đến khi hai tôn giáo Nho và Lão phát triển trong lúc Phật giáo đang độc tôn là quốc đạo nhưng Phật giáo không hề bài xích mà lại hòa hợp thành triết lý tam giáo đến nỗi hệ thống trung ương tập quyền cho mở khoa thi tam giáo. Rồi theo bánh xe lịch sử Nho giáo có những lúc bài bác nhưng với sức sống mãnh liệt Phật giáo vẫn tồn tại cho đến tận bây giờ trong khi hai tôn giáo kia giờ chỉ còn là chiếc bóng ở Việt Nam.
    Rồi đến khi tín ngưỡng thờ nữ thần của Việt Nam phát triển cực thịnh như có nguy cơ tách thành một tôn giáo nội sinh mang tư tưởng bản địa thì Phật giáo ngay lập tức hòa mình vào để hóa độ một luồng tư tưởng mới của dân tộc định hướng và nhiếp phục nó trở thành một bộ phận của mình.
    Bằng việc xiển dương Diệu Pháp Liên Hoa Kinh đặc biệt là Phổ Môn Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát. Với 32 hóa thân, đức Bồ tát hiệu là Viên Thông, danh là Tự Tại, quá khứ Chính Pháp Minh, hiện tiền Quán Tự Tại lại thực hiện hạnh nguyện của mình hiện nữ thân để thuyết Pháp. Ngài đã thị hiện tại Hương Tích sơn làm đức Chúa Ba, một thái tử thiên tào đầu thai xuống trần làm công chúa (hơn hẳn Thánh Mẫu là công chúa thiên tào xuống trần làm con một nhà trưởng giả) rồi tu đắc đạo, hiếu hạnh vẹn tròn, thần thông quảng đại, bi nguyện đại từ vị thần nữ bồ tát này đã vượt trên các nữ thần khác để trở thành giáo chủ Đô Đàn. Đứng ngôi chứng minh tối cao của Tam phủ công đồng, tứ phủ vạn linh. Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong khoa cúng tử phủ phải thỉnh Đô Đàn giáo chủ trước tiên, trong tranh thờ dân gian Ngài cũng ngự trên cùng.
    Để củng cố thêm sự ảnh hưởng của Phật giáo đến tín ngưỡng tam, tứ phủ và thờ nữ thần Phật giáo lại có thêm truyện Quan Âm Thị Kính ra đời cùng thời điểm để nhấn mạnh nữ tính của đức Bồ Tát Quan Âm.
    Và di sản để lại sau 500 năm ảnh hưởng tới tín ngưỡng tam, tứ phủ ở Việt Nam của Phật giáo không chỉ là ngội vị giáo chủ, không chỉ là tinh thần Phật giáo trong các bản văn chầu, văn thờ không chỉ dừng lại ở tín ngưỡng tâm linh của người Việt vào Phật giáo mang tính chất phi vật thể mà còn là những công trình kiến trúc vật thể có giá trị mà tiêu biểu là hai hệ thống Hương tích Sơn thánh địa tại Mỹ Đức, Hà Tây và Hà Tĩnh với lễ hội hành hướng kéo dài nhất cả nước tiêu biểu cho văn hóa hành hương thánh địa của cả dân tộc. Những cuộc hành hương như vậy cũng có thể so với cả cuộc hành hương về Mecca của tín đồ đạo Hồi.
    Như vậy chúng ta cần thấy rằng sau 2000 năm Phật giáo đã cống hiến và đem lại cho dân tộc chúng ta nhiều hơn là chúng ta thường nghĩ hoặc có thể nói vượt qua sức sự suy nghĩ đánh giá của chúng ta. Sự ảnh hưởng sâu đậm, sự hòa mình nhẹ nhàng khéo léo đã làm nên một Phật giáo Việt Nam mang đặc trưng không thể nhầm lẫn với Phật giáo ở các quốc gia vùng miền khác.
    Và những người Phật tử cũng nên nhìn vào thực tế lịch sử Phật giáo 2000 năm qua tại Việt Nam để thấy được sự khế lý, khế cơ đến tài tình và nghệ thuật có bài bản của Phật giáo trong quá trình “Giải Như Lai Chân Thực Nghĩa” cho dân tộc Việt Nam và tín ngưỡng bản địa.
     
  4. Hạo Vũ

    Hạo Vũ New Member

    Xin lỗi anh Trí Minh, anh là chủ nhiệm CLB Phật Tử mà anh nói thế có lẽ phải xem xét lại. Chính đức Thế Tôn khi tại thế đã nhấn mạnh "Chư thiên chỉ có thể thờ phụng nhưng không thể y vào đó mà giải thoát". Trong Đạo Phật có cái là Lý, có cái là Sự, có cái lại chỉ là Phương tiện. Theo anh nếu tôi nhận định việc cúng bái đó là phương tiện có gì sai theo tinh thần Phật giáo chăng? Nếu không sai thì anh chẳng nên lấy cái Phương tiện ra rồi chỉ bày đó là chân lý. Mục đích của tu Phật là gì, mục đích tu Tiên ra sao nếu anh chưa rõ thì có thể mở "Phật học phổ thông" - Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, quyển 1 ra mà xem. Tôi nghĩ các bậc tiền nhân không hề lầm lẫn khi đưa ra ý kiến
    "Phật với tiên, đường lối khác xa"
    Còn anh nói việc chư Phật và các hàng Hiền Thánh Tăng thị hiện làm chư thiên khác hoàn toàn với việc mục đích tu hành của các ngài là thành Tiên.
    Vì anh nói là lý luận cao siêu quá thì không thể hiểu nên tôi chả dám trích kinh điển ra góp ý với anh làm gì. Chứ những kinh như kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm... không thiếu các bộ luận về các kinh, chư Tổ đã chỉ bày nghĩa của câu trên (tu Phật khác gì với tu Tiên_mà Phật gọi là ngoại đạo)
    Thân ái
     

Chia sẻ trang này