Múa Bài Bông: Đỉnh cao của nghệ thuật ca trù

Thảo luận trong 'Ca trù' bắt đầu bởi CoCoMy, 7/7/11.

Lượt xem: 2,258

  1. CoCoMy

    CoCoMy New Member

    Trong nghệ thuật Ca trù - một trong những loại hình âm nhạc truyền thống của Việt Nam, được biết đến đến bởi sự phối hợp tuyệt vời giữa ca từ và giọng hát hoà cùng các nhạc khí: phách, đàn đáy, trống chầu… Tuy nhiên, ít ai để ý rằng một trong những nhân tố làm nên sự thành công của nghệ thuật Ca trù, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng công chúng là nghệ thuật Múa trong Ca trù - là một trong những thành tố quan trọng góp phần tạo nên sự đặc sắc của sinh hoạt văn hoá nghệ thuật ca trù cổ truyền. Trong đó múa Bài Bông được xem là đỉnh cao của nghệ thuật múa Ca trù Việt Nam.
    Múa Bài Bông: “Báu vật” của nghệ thuật Ca trù
    Múa Bài Bông trong dân gian còn có một tên gọi khác là Bắt Bài Bông, là một điệu múa nằm trong hệ thống các bản múa của nghệ thuật Ca trù (Gồm múa Bỏ bộ, múa Tứ Linh, múa Bài Bông). Điệu múa này thường được sử dụng trong các dịp đại lễ của chốn giáo phường, trong không gian uy nghi ở nơi cửa đình khi hát thờ một năm thường được sử dụng hai lần và ngày giỗ tổ Ca trù và tháng 3 và tháng 11 âm lịch. Bên cạnh đó trong không gian Cửa quyền tức là hát tại các dinh quan, đám khao vọng chúc thọ lớn, điệu múa này cũng được sử dụng, những nghệ nhân Ca trù vẫn coi điệu múa Bài Bông như một điệu múa dùng để múa chầu, múa ngự, và được coi là báu vật vì chỉ giáo phường lớn hay đi hát thờ mỗi dịp tế lễ ở đình, dinh quan hay hát cho vua mới có.
    Điệu múa Bài Bông được coi là báu vật của mỗi giáo phường xưa. Thông thường chỉ có giáo phường nào lớn mạnh hay được đi hát thờ ở mỗi dịp tế lễ ở đình, ở dinh quan, hay vào kinh Chúc Hỗ hát chầu ngự vua mới có được một đội múa Bài Bông, vì chi phí để thành lập một đội như vậy rất tốn kém. Ngoài ra, trong Sách Việt Nam Ca trù biên khảo, do 2 tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề biên soạn, xuất bản năm 1962 cũng đã khẳng định: “Múa Bài Bông là nhã nhạc của đế vương thịnh điển nhất trong nhạc giới”.
    Đội múa trong điệu múa Bài Bông có ít nhất là 4 người theo mức độ quan trọng của không gian diễn xướng mà tăng số lượng người lên gấp đôi: hoặc 8 hoặc 16, những dịp đại lễ thì phải 32 người múa.
    Về trang phục các cô khi múa thì mặc áo mã tiền thêu kim tuyến, chân áo đính chân chỉ hạt bột, trên mũ gắn một quả bông, hai vai bên vai đeo đèn hình hoa sen, tay cầm quạt tầu, lúc thì xếp quạt, lúa xòe quạt linh hoạt và trông rất vui mắt. Các cô đầu vừa múa và vừa hát, động tác múa ứng hợp với lời hát đã được cách điệu đi nhiều, động tác múa lạ không giống với bất cứ lối múa của các nghành nghệ thuật nào. Đi kèm với đội múa là một đội nhạc: có Quản giáp cầm trống cái giữ nhịp, một người đánh đàn đáy, một đàn nguyệt bốn dây (vẫn gọi là đàn tứ đoản); một đàn tam; một trống mảnh, chiêng và trống cơm, lúc tấu nhạc khoan thai, vui tươi gợi nên cảnh thái bình.
    Múa Bài Bông gồm 9 màn nhưng trên thực tế chỉ diễn 6 màn theo thứ tự: Một bài hát Kéo ra (Tựa như màn giáo đầu) – Bài hát Xuân (Ca ngợi cảnh sắc tươi vui đất nước trong vào mùa Xuân, tương tự như vậy có các bài Hạ - Thu – Đông, khi diễn xướng mà linh hoạt tùy theo tiết mùa mà đổi bài hát) – Sau bài hát Xuân đến bài hát Khách – Tiếp vào bài Thời Hồ (Tức là Đào viên kết nghĩa) – Tiếp tục là một bài hát Khách và kết thúc là bài Kéo vào. Múa đủ 6 màn hết gần một tiếng. Từ trước đến nay hiếm có một điệu múa nào kéo dài được như thế.
    Múa Bài Bông, những bước đi thăng trầm
    Múa bài bông là một điệu múa cổ Việt Nam. Điệu múa này ra đời từ thời nhà Trần. Trần Quang Khải đã dựng nên điệu múa này để ca múa trong ngày lễ thái bình diên yến của vua Trần Nhân Tông. Sách Việt Nam Ca trù biên khảo có ghi chép lại là điệu múa Bài Bông là do Trần Quang Khải dựng ra để ca múa trong ngày lễ Thái Bình diên yến do vua Trần Nhân Tông tổ chức sau khi đánh thắng quân Nguyên – Mông lần thứ 3.
    Tuy nhiên, ý kiến khác lại cho rằng Múa bài bông do Chiêu Vương Trần Nhật Duật dựng nên. Trong sách Tuyển tập thơ Ca trù, xuất bản năm 1987, nhà thơ Ngô Linh Ngọc viết rằng: Múa Bài Bông do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật dựng nên. Về lai lịch tác giả của điệu múa Bài Bông có thể chưa chắc chắn nhưng có nhiều dấu vết có thể coi đó là một điệu múa của thời nhà Trần: Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược lần thứ 2, nhà Trần có bắt được con hát Tuồng tên là Lý Nguyên Cát trong đám loạn quân của Toa Đô, sau đó Lý Nguyên Cát tự nguyện xin ở lại và dạy hát Tuồng, trong đó có vở Vương mẫu hiến đào được các con em vương hầu lúc bấy giờ tranh nhau học.
    Điệu múa Bài Bông còn lại cho đến ngày nay thì về phần giai điệu ảnh hưởng khá nhiều chất nhạc của Tuồng trong đó, mang ý chúc thọ với các động tác thể hiện hình ảnh hiến đào, dâng tửu rất sang trọng và động tác thể hiển các cảnh tao nhã: hiến đào, dâng rượu. Điệu múa hội ngộ giữa tinh thần Việt Nam gắn liền với văn hóa Phật giáo, hòa nhập với sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm.
    Trong chốn giáo phường vẫn coi điệu Bài Bông là một điệu múa chúc thọ, nhưng trên thực tế khi tìm hiểu và phân tích ý nghĩa thông qua sự sắp xếp các màn múa, mức độ quan trọng, những dấu hiệu đặc biệt khi phân tích bài Thời Hồ thì thấy có thể đây không phải đơn thuần là một bài múa mang tính chất chúc thọ mà chính là điệu múa xưng tụng cảnh đất nước thanh bình cũng như ý nghĩa thành công của việc 3 lần chiến thắng quân Nguyên – Mông xâm lược tạo nên hào khí Đông – A của vương triều nhà Trần.
    Tuy nhiên, đó cũng là những thông tin duy nhất còn sót lại về sự ra đời của múa Bài Bông. Và phải đến thế kỷ XX, những tài liệu về múa Bài Bông mới lại xuất hiện trở lại song cũng khá mơ hồ. Tư liệu còn để lại cho thấy vào dịp Tứ tuần đại khánh (Mừng thọ 40 tuổi) của vua Khải Định (năm 1924) thì đoàn ca công ở Thanh Hóa đã đưa điệu múa này vào trong Huế để biểu diễn chúc thọ vua.Tiếp đó là hai tấm ảnh về một đội múa Bài Bông của bác sĩ Charles-Edouard Hocquard, một vị bác sĩ quân y đã theo đoàn viễn chinh Pháp sang Việt Nam đầu thế kỷ XX.
    Theo Thạc sĩ, nghệ sĩ Ca trù Lê Thị Bạch Vân, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội: Trước đây có rất nhiều địa phương giữ được các điệu múa cổ của Ca trù, nhưng hiện giờ thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Múa hát Bỏ bộ trước còn có ở Thượng Mỗ (Đan Phượng, Hà Tây) nhưng nay chỉ còn ở Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội). Riêng múa Tứ linh và múa Bài bông thì đã thất truyền. Có những nghệ nhân như Nguyễn Thị Chúc, NSND Quách Thị Hồ, Tô Thị Chè, tuy các cụ thân sinh chuyên đi hát cửa đình nhưng đến đời mình chỉ đi hát ca quán, nên cũng không được học. Sau năm 1955, thể hát múa này chỉ còn lại trong trí nhớ của một vài người.
    Năm 1980, đoàn làm phim Hát cửa đình Lỗ Khê của Trung tâm nghe nhìn Hà Nội định dựng lại điệu múa Bài Bông, nhưng đáng tiếc do thiếu kinh phí nên không thể dựng được. Tuy vậy cũng có thu được một phần nhạc của điệu múa Bài Bông do nghệ sĩ Kim Đức dựng lại.
    Sau một thời gian múa Bài Bông có nguy cơ thất truyền, một số nhà nghiên cứu đã tìm cách phục dựng lại. Tuy nhiên, do không có nhiều tài liệu và thực tế chứng kiến nên việc phục dựng ít nhiều thiếu tính xác thực về chi tiết điệu múa. Nghệ sĩ Phó Thị Kim Đức được cha từng là Quản giáo Giáo phường ca trù Khâm Thiên là cụ Phó Đình Ổn dạy lại điệu múa. Và sau 6 tháng vừa luyện tập, vừa may trang phục, điệu múa này đã chính thức ra mắt tại chùa Trình (Yên Tử), Quảng Ninh ngày 9/12/2007 như một sự trở về với cội nguồn. Một điệu múa cổ gần 700 năm tuổi lại xuất hiện tại khu danh thắng ghi những dấu ấn văn hóa, tâm linh quan trọng nhất của triều đại nhà Trần – đây là một trong những việc làm cần thiết trong nỗ lực khôi phục và phát huy những giá trị văn hoá đẹp cổ truyền của dân tộc.
    Viện Âm nhạc là đơn vị được Bộ Văn hoá -Thể thao và Du lịch giao nhiệm vụ lập hồ sơ quốc gia Hát ca trù người Việt trình UNESCO xét công nhận là Kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Từ mấy năm nay, Viện đã tổ chức khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu và hội thảo về ca trù. Trong quá trình khảo sát, sưu tầm, các nhà nghiên cứu tìm hiểu được rằng (cả trong sách Hán Nôm và lời kể của nghệ nhân), ngoài yếu tố chưa thống nhất được có bao nhiêu loại hình múa trong ca trù, thì mỗi điệu múa tại mỗi phường cũng được trình diễn khác nhau, mang sắc thái khác nhau. Ví như ở Bắc Ninh, ca trù cửa đình được mô tả: Đào tay cầm hai cái sinh đứng một mình hát thờ; trong lễ cửa đình có nhiều cặp (kép/đào) tham gia hát múa; phần bỏ bộ được múa vào lúc gần sáng do cô đào thể hiện; còn múa bài bông thường múa vào dịp giã đám...
    Đề xuất các phương án, ông Lê Văn Toàn-Viện trưởng Viện Âm nhạc cho rằng: Cần xác định tên gọi các hình thức múa trong ca trù (theo tư liệu văn bản Hán Nôm, theo sách xuất bản hay theo trí nhớ của nghệ nhân...?); Xác định tiêu chí phân loại cho múa; Đánh giá, nhận định và đề ra những phương thức tổ chức phục hồi, bảo tồn các hình thức múa trong ca trù. Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan và nhà nghiên cứu Nguyễn Thuỵ Loan đều cho rằng, nên dựa vào nghệ nhân dân gian-báu vật nhân văn sống đang lưu giữ những hình thức múa ca trù, vì chỉ có họ mới có khả năng làm sống lại những điệu múa ca trù.
    Múa bài bông tuy đơn giản về động tác, nhưng đòi hỏi người múa phải thuộc lời hát để khớp đúng động tác với từng câu hát, rất khác so với múa thông thường khi vũ công chỉ cần nghe nhạc là có thể múa được. Lời bài hát xưa được viết bằng chữ Hán, rất khó học thuộc.
    Múa Bài Bông cùng rất nhiều điệu múa và những phong tục tập quán cổ truyền của dân tộc hiện đang được tiến hành phục dựng. Tuy nhiên, vẫn còn đó rất nhiều thách thức cũng như vướng mắc trong quá trình phục dựng. Bản thân việc tìm lại những nhân chứng, những tài liệu nguyên bản ghi lại các điệu múa hay phong tục tập quán từ xa xưa của dân tộc là vô cùng khó khăn.

    Cinet tổng hợp
     

    Bình Luận Bằng Facebook

  2. hoa.xuyen.tuyet

    hoa.xuyen.tuyet New Member

    Xin được bổ sung thêm một số hình ảnh về Múa bài bông xưa và nay :D

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
  3. hoangan1303

    hoangan1303 New Member

    Trang phục bức ảnh thứ 3 giống trang phục của múa cung đình Huế quá!
     

Chia sẻ trang này