MỘT BẢN THẦN TÍCH VỀ BA VỊ TƯỚNG THỜI HAI BÀ TRƯNG [h=1]TRƯƠNG SỸ HÙNG[/h]Viện Nghiên cứu Đông Nam Á Ở phía đông bắc tỉnh Thái Bình nay có xã An Đông thuộc huyện Quỳnh Phụ; xưa có trang Hưng Tổ, tên Nôm gọi là làng Tó, nằm trong vùng đất cổ nhất của tỉnh. Sau cải cách ruộng đất (1956), xã An Đồng gồm có 4 thôn: Lễ Văn, Vũ Xá, Đồng Tâm, Đào Xá. Cũng giống như hầu hết các vùng quê khác của Thái Bình, trước năm 1890 mỗi làng, xã, xóm, thôn, huyện, tổng; đều là tên những địa danh của Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương... trước đây. Thành tựu nghiên cứu khoa học hiện đại, đã chứng minh bằng nhiều hiện vật khảo cổ, dân tộc học... rằng một bộ phận cư dân Việt, đã định cư ở phía tây và phía bắc Thái Bình từ thế kỷ I, II. Bộ phận di cư nội địa; nhiều khi chỉ là sự dãn dân, do gia tăng dân số của cư dân trong tỉnh; dần dần mở rộng diện tích canh tác ra các miền đất sa bồi ven biển; do phù sa bồi đắp ở các miền cửa sông. Trải hơn hai nghìn năm lịch sử, Thái Bình đã cung cấp rất nhiều sức người, sức của cho các cuộc chiến tranh bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Hán (thế kỷ V) ở Thái Bình có khoảng gần 30 vị tướng lĩnh; bao gồm cả trai và gái trở thành tướng lĩnh đã đứng lên chiêu mộ binh sĩ, theo Hai Bà Trưng phất cở khởi nghĩa. Ở đây, chúng tôi giới thiệu một bản thần tích của làng Tó, nói về ba anh em họ Hoàng ở xã An Đồng. Tài liệu có tên là: Trưng nữ vương triều công thần tam vị đại vương ngọc phả (徵女王朝功臣三位大王譜). Sau đây chúng tôi xin giới thiệu bản dịch bản ngọc phả này. Ba vị đại vương công thần triều Trưng nữ vương Đất Việt xưa, trời Nam mở vận, núi ông nằm ngang địa phận sao Dực, sao Chẩn; Bắc quốc sơ phong, hướng thẳng vùng sao Ngưu, sao Đẩu từ triều vua Hùng. Vua Kinh Dương thừa lệnh vua cha chia phong làm dòng đế vương nước Nam lập kinh đô tại Hoan Châu, lấy Nghĩa Lĩnh làm cương giới, sửa sang cung miếu, truyền nước hai đời, xưng là Lạc Long Quân kết duyên với tiên nữ ở hồ Động Đình. Định cư ở Nghĩa Lĩnh, trên đỉnh núi có mây lành năm sắc rực rỡ. Âu Cơ mang thai sinh ra cái bọc trăm trứng, sau nở ra một trăm người con trai đều là anh hùng cái thế, đức độ hơn người. Đến khi các con đã trưởng thành, vua bèn dựng phong, chia nước ra làm 15 bộ. Một hôm Lạc Long Quân mới bảo với Âu Cơ rằng: “- Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, do khí hợp ngũ hành âm dương mà có con, nhưng lại không cùng thủy hỏa, nên không thể chung sống cùng một nơi, phải chia nhau trấn trị các đầu sông, góc biển. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần, chia nhau cai quản ngọn núi bờ khe để phòng khi sau này có chuyện gì xảy ra thì thông báo cho nhau biết để cứu giúp lẫn nhau, không được bỏ nhau. Từ đó nhà Hùng đã có 100 thần sơn thủy thường hiện lên trên đời, đầu thai vào các nhà làm con cái để lo việc hộ quốc an dân. Nhà nào có phúc được những người đó nhập vào làm con. Lại nói vua Hùng truyền nhau đến đời thứ 18 là đời Duệ vương không có người kế ngôi, nên đã nhường ngôi cho Thục, Dương Vương trị vì đất nước trong vòng 50 năm thì Triệu Đà, người Chân Định mang quân sang xâm lược, nhà Thục bị diệt vong. Triệu Đà cai trị đất nước, cha truyền con nối 5 đời làm vua. Nước Việt từ đây lại thuộc về Tây Hán. Khi ấy ở trang Văn Xá, huyện Gia Lộc (còn gọi là Trương Tân) phủ Ninh Giang, trấn Hải Dương (xưa còn có tên là phủ Hạ Hồng trấn Hồng Châu, sau đổi thành Dương Toàn), có một gia đình; người chồng họ Hoàng tên Đức, người vợ họ Cao, tên Thị Nguyệt. Cả hai người thật thà phúc hậu; đã ăn ở khoan hòa lại năng làm việc thiện, thường cứu giúp người cơ hàn. Nhân dân vùng này đều gọi nhà họ Hoàng là nhà tích thiện, tất có nhiều tin vui, nhưng cả hai ông bà tuổi tác đã cao mà vẫn chưa có con. Bà cố gắng chịu đựng, còn ông thì ngày đêm buồn bã. Ông bà thường thắp hương cầu nguyện. Thế là vào cuối canh ba, tự nhiên ông nằm mơ thấy thần nhân gọi ông và bảo rằng: Hoàng Đức, Hoàng Đức! người đã làm nhiều việc thiện làm cảm động đến cả hoàng thiên. Thiên hoàng đã phái ta mang đến cho nhà ngươi ba chàng trai (gọi là tam hoàng) để làm phúc cho nhà họ Hoàng. Khi tỉnh dậy, ông không thấy thần nhân đâu cả. Ông bèn gọi vợ mà hỏi rằng: bà có biết chuyện gì đã xảy ra không? Bà Cao Thị Nguyệt trả lời có biết. Hai ông bà bàn bạc với nhau, rồi ngay hôm sau dâng lễ tạ ơn. Từ đó bà vợ thấy trong người có mang. Ngày 10 tháng 2 năm Canh Ngọ, bà sinh ra một cái bọc nở ra 3 người con trai, diên mạo phi thường, tài trí hơn người. Ông bà họ Hoàng vui mừng khôn xiết. Thật là phúc trùng lai mà trời đã ban tặng cho nhà họ Hoàng. Ông bà đặt tên cho người con thứ nhất là Hòe, người thứ hai là Quế và người thứ ba là Liễu. Năm ba người lên 7 tuổi thì ông bà cho đi học. Đến năm 12 tuổi, tài trí của ba người vượt cao học lực tinh thông, đọc thuộc binh thư. Về võ lược, mỗi người đều sử dụng chiếc gậy mà hàng trăm người phu không sao đương nổi. Tiếng tăm ba anh em nhà họ Hoàng được lan truyền trong thiên hạ. Đến khi ba người 18 tuổi thì tài họa bất ngờ ập đến. Phụ mẫu của ba ông đều qua đời. Ba ông lo ma chay, chôn cất cho bố mẹ và chịu tang trong 2 năm xong, sau đó ba ông bèn đi chu du khắp nơi sơn cùng thủy tận, từ phố phường đến thôn dã. Một ngày kia, ba ông đến khu Vũ Xá, trang Hưng Tổ, huyện Phụ Phụng, phủ Thái Bình thuộc trấn Nam Định, thời xa gọi là đạo Sơn Nam hạ. Nơi đây sơn thủy hữu tình, ba ông lấy làm mừng rỡ, bèn lưu lại chung sống với nhân dân vùng này được 8 ngày. Nhân dân trong làng đều yêu kính, ái mộ ba ông. Lại nói thời gian này có Tô Định mang quân sang xâm lược nước ta, nhưng vẫn chưa có ai đứng ra cầm quân diệt giặc. Khi ấy người cháu gái của vua Hùng trước kia họ là Trưng, tên húy là Trắc, oai phong lẫm liệt, tiếng tăm lừng lẫy. Bà đã đứng lên phất cờ dấy binh chống lại quân giặc, nhưng đương thời vẫn chưa tìm được bậc nam nhi tài giỏi phò tá giúp bà diệt giặc. Một ngày kia, bà lập đàn tại cửa sông Hát Môn (tức xứ Sơn Tây); cho mổ trâu, lợn để cáo tế trời đất, bách thần sông núi. Bà khấn rằng: “Trời đã sinh ra một người là tôn chủ của vạn vật thiên địa. Tôi từng nghe nói các triều đại trước, các bậc thánh hiền, thánh minh triều đình đều có đạo yêu nước thương nòi, đức giáo hóa rộng rãi, khiến cho thiên hạ thái bình, quốc gia an thái. Nay thái thú Tô Định ngông cuồng, bọn chó dê tàn ác khiến đất trời và thần dân trăm họ đều căm phẫn. (Khi bà nói đến sinh linh trăm họ thì trời xanh cũng cảm động nhỏ lệ xót thương). Ngày nay kẻ trượng phu vì việc nghĩa, xin nguyện cầu bách vị chư tôn thần linh nội đàn tại đây giúp Trưng nữ tôi điều binh đánh giặc, cứu nước cứu dân, khôi phục lại dòng dõi tổ tông, cứu vớt trăm họ thần dân thoát khỏi vòng nước sôi lửa bỏng, để không hổ thẹn với ý nguyện của trời xanh và những điều ủy thác của tổ phụ dưới cửu tuyền”. Khấn xong, bà cho mở tiệc khao binh và tập hợp binh sĩ, truyền hịch tới các đạo, các châu quận để chiêu binh mộ tướng. Nơi nào có nam nữ tướng tài đến đều được bà tiếp nhận phong quan chức để đi dẹp giặc. Lúc đó khi nghe thấy lời chiêu binh mộ tướng của bà Trưng Trắc, ba ông (Hòe, Quế, Liễu) ghi khắc trong lòng. Ba ông đã thành lập một đồn đóng quân tại Vũ Xá, yết bảng chiêu binh, không quá 5 ngày sau đã có hàng ngàn người hưởng ứng theo ba ông đến ra mắt Trưng nữ. Khi nhìn thấy ba ông văn võ toàn tài, anh hùng xuất chúng, võ lược hơn người, Trưng nữ bèn phong cho ông Hòe làm Thống chế uy dũng thượng tướng quân. Ông Quế, ông Liễu làm tả hữu đô chỉ huy sứ đại tướng quân và sai đem quân đi đánh giặc. Ba ông bái nhận quan chức, phụng mệnh dẫn quân thủy bộ cùng với Trưng nữ đem quân đến thẳng đồn giặc đánh một trận lớn. Quân Tô Định đại bại, chém được chính tướng, quân ta thu được rất nhiều lương thảo và ngựa của địch. Bình định được 65 thành, khôi phục lại bờ cõi, lãnh thổ nước ta. Sau đó Trưng nữ lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh, mở tiệc ăn mừng và khao thưởng gia phong đẳng cấp cho các tướng sĩ. Riêng ba ông được phong làm đại quan trong triều đình. Rồi một ngày kia, ba ông quay về khu Vũ Xá, trang Hưng Tổ là nơi ba ông đã từng sống và xây dựng đồn trú ở đây để mở tiệc ăn mừng, thết đãi dân làng. Lúc này các phụ lão cùng dân chúng Vũ Xá mới có lời tâu rằng: “- Từ ngày ba ông thiết lập đồn sở nơi đây và treo bảng chiêu binh mộ tướng tại khu Vũ Xá đến nay, dân làng đều yên ổn phú cường, vì vậy xin được mở yến tiệc tại đồn cũ để làm nơi thờ phụng sau này”. Ba ông đồng ý và bảo rằng: “- Sở dĩ anh em ta phá được giặc Tô Định, là nhờ vào lòng trời đó thôi. Từ nay về sau tình cảm của anh em ta với dân làng càng thêm sâu nặng. Di mệnh của anh em ta, cho đến muôn đời sau; vẫn gửi gắm và thờ phụng nơi đây”. Ba ông còn ban năm hốt vàng, để dân làng mua thêm đất làm nơi cúng tế. Mọi người đều ghi sâu lời ủy thác. Sắp đặt công việc và nhắn lời chu đáo, hôm sau ba ông xa giá hồi triều. Lại nói Trưng nữ lên ngôi vua được 3 năm, nhà Hán sai Mã Viện đem quân sang đánh chiếm nước ta. Quân giặc giao chiến với quân ta tại sông Lãng Bạc. Quân ta thất bại phải rút về Cấm Khê. Người em của Trưng Trắc là Trưng Nhị cố cầm cự với quân địch, cuối cùng cũng bị vây hãm ở đấy. Ba ông thu quân rút lui về huyện Phụ Phụng, thì cũng được tin quân sĩ của vua lâm vào thế cùng, cũng chạy đến địa phận đầu trang Hưng Tổ. Ba ông ngửa mặt lên trời than khóc, rồi uống thuốc độc tự tử vào ngày 12 tháng 11 (âm lịch). Nhân dân trong vùng, dành một khoảnh đất trong khoảng 100 mẫu, xây một ngôi mộ lớn cho các tướng sĩ, đã xả thân vì nước và lập đền thờ ba ông; tế lễ cầu nguyện thành tâm, mọi việc đều linh ứng như ý. Khi vua Đinh Tiên Hoàng, đem quân đi dẹp loạn 12 sứ quân; đến vùng giáp giới khu Vũ Xá, trang Hưng Tổ, nhà vua bỗng thấy ba ông già tay cầm cờ gươm đứng cản đường. Quân sĩ triều đình hoảng sợ, không dám tiến lên. Vua cầm gươm chỉ về phía ba ông và khấn rằng: “- Nếu ba ngài có linh thiêng thì hãy biến đi, nhược bằng không ta sẽ chém đầu”. Vua vừa nói xong, ba ông liền vung gươm biến mất. Vua thấy làm kinh ngạc bèn dừng chân tại đền thờ ba ông. Đến cuối canh ba đêm hôm đó, vua nằm mơ thấy ba ông áo mũ chỉnh tề, hình dung cổ quái, từ trong miếu đường bước ra, tự xưng là bản cảnh trông giữ nơi đây. Ba ông nói: “- Trời đất đã an bài định sẵn, có vua tất phải có thần. Nay thần thấy bệ hạ thân chinh cầm quân diệt giặc, phụng mệnh chiếu chỉ của thiên hoàng; muốn đến để cùng đi theo nhà vua giết giặc lập công”. Ba ông nói xong liền biến mất. Khi Đinh Tiên Hoàng tỉnh dậy mới biết mình vừa trải qua một giấc mộng thần kỳ. Hôm sau nhà vua bèn triệu các vị bô lão của làng Vũ Xá đến hỏi cho tường tận. Các vị bô lão mới tâu rằng: “- Khu này đúng là nơi thờ phụng ba vị đại vương công thần, từ các triều đại trước”. Câu chuyện về ba ông đã được các bô lão trong làng kể lại từ đầu đến cuối với những chi tiết rất rõ ràng. Đinh Tiên Hoàng nghe xong liền cho ghi vào sử sách, để truyền lại cho đời sau. Sau đó vua làm lễ lạy tạ ba vị thần, rồi cất quân đi đánh giặc. Sau khi dẹp yên 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng xưng vương, mở lễ mừng công, gia phong chức tước cho các tướng sĩ. Vua truyền rằng: “- Ta dẹp nhanh được loạn 12 sứ quân, là nhờ có âm phù, thần trợ”. Vua lập tức sắc phong cho ba thần: Nhất phong Hòe công phấn tiết quang minh chính đức đại vương. Nhất phong Quế công trung tiết phổ bác thông minh đại vương. Nhất phong Liễu công tráng tiết hiển diệu linh đức đại vương. Sắc phong thần ban thưởng mỹ tự cho khu Vũ Xá, trang Hưng Tổ. Từ đó trở đi, khu Vũ Xá vẫn thờ cúng, rất linh ứng. Các bậc đế vương của các triều đại sau, đều ban sắc cho ba vị đại vương và gia phong mỹ tự. Đời vua Trần Nhân Tông, khi giặc Nguyên sang xâm lược nước ta, kinh thành bị bao vây. Trần Quốc Tuấn phụng mệnh vua cha, thân hành đến cầu xin trước đền thờ ba ông. Sau khi đánh thắng giặc Ô Mã Nhi, vua Trần Nhân Tông khen ngợi và ban sắc phong: “Tam vị tế thế an dân, hiển hữu trợ thắng, uy dũng hùng kiệt dương vũ dự thánh tả trị phong công đương cảnh thành hoàng ngưng hưu trung đẳng thần”. Nhà vua ban sắc chỉ cho nhân dân khu Vũ Xá, trang Hưng Tổ trùng tu miếu tự để cúng tế theo ngày sinh và ngày mất của ba ông. Đồng thời cấm gọi tên húy của ba ông “Hòe, Quế, Liễu”. Được phép nhân dân Vũ Xá, trang Hưng Tổ tổ chức tế lễ nhân ngày sinh của ba ông là ngày 10 tháng 2 (âm lịch); dùng lễ vật như trâu, lợn, gạo, rượu để cúng tế. Ngoài ra còn được tổ chức vui chơi ca hát, đấu cờ, đánh vật và diễn trò v.v... Ngày 12 tháng 11 là ngày hóa thần (tức ngày mất của ba ông), lễ vật cúng tế dùng như trên, nhưng không được ca hát. Ngày tốt tháng 2 niên hiệu Hồng Phúc năm đầu, thần Đại học sĩ Hàn lâm viện Bộ Lễ, Nguyễn Bính phụng soạn chính bản. Ngày tốt tháng 8 niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư, nội các bộ Lại phụng sao nguyên bản. Ngày 10 tháng 3 niên hiệu Bảo Đại thứ sáu, dân thôn Vũ Xá sao chép lại tuân theo nguyên bản cũ lưu tại đền vua Hùng, xã Cổ Tích tỉnh Phú Thọ; tất cả gồm sáu tờ./. Thông báo Hán Nôm học 2006 (tr.324-332)