Lục Bộ Tướng Thánh Nhà Trần

Thảo luận trong 'Thần tích nhà Trần' bắt đầu bởi Thanh Tùng, 6/6/11.

Lượt xem: 11,244

  1. Thanh Tùng

    Thanh Tùng Thành viên Bị cấm

    Đông A Điện Súy Thượng Tướng Quân - Quan Nội Hầu - Vạn Tuế Thượng Đẳng Phúc Thần Phù Ủng Đại Vương

    [​IMG]
    PHẠM NGŨ LÃO

    (1255-1320)

    [video=youtube;cp0FocYHKLY]http://www.youtube.com/watch?v=cp0FocYHKLY[/video]
    Cuộc Đời​


    [​IMG]
    Phạm Ngũ Lão , người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào,Phủ Thượng Hồng (nay là làng Phù Ủng ,xã Phù Ủng, huyện Ân Thi ,tỉnh Hưng Yên).Ông sinh năm 1255, trong một gia đình làm nghề nông, mồ côi cha khi mới lên 5 tuổi. Từ nhỏ ông đã tỏ ra nhanh lẹ, có sức khỏe và chí khí hơn người . Tương truyền, năm ông 13 tuổi, có người trong làng đỗ đạt làm quan thiết đãi cả làng trong 3 ngày , nhưng ông không đến, vẫn say sưa ôn luyện bài vở, luyện tập võ nghệ, với ý nghĩ người ta làm nên công danh sự nghiệp vẻ vang cho làng xóm, còn mình chưa làm nên công cán gì cho làng,nên cảm thấy nghẹn lòng.

    Nhà Phạm Ngũ Lão ở gần đường cái, thường ngày ông vẫn ngồi bên đường chẻ tre, vót nan, đan sọt,suy ngẫm về việc nước, ước ao một ngày được đem sức giúp nước, phỉ trí làm trai. Rồi một hôm khắp vùng xôn xao chuyện Hưng Đạo Vương từ Vạn Kiếp trẩy quân qua Phù Ủng để về Thăng Long. Phạm Ngũ Lão trằn trọc suốt đêm không ngủ. Có phải đây là dịp cho mình tìm được chủ tướng hay không?

    Sáng hôm sau, Phạm Ngũ Lão dậy thật sớm, đẵn một cây tre to, vác dao ra đường cái quan ngồi đợi sẵn. Tiền quân của Trần Quốc Tuấn do con trai Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng chỉ huy đi trước dẹp đường, thấy Phạm Ngũ Lão bèn quát đuổi. Ông vẫn ngồi im, hiển nhiên đan, vót, như không nghe thấy gì.Quân lính lấy giáo đâm vào đùi, máu chảy ông vẫn không nhúc nhíc. Hưng Đạo Vương tới nơi thấy làm lạ hỏi chuyện; Phạm Ngũ Lão ứng đáp trôi trảy;lại thấy tướng mạo khôi ngô, dũng khí khác thường, biết là người có tài, liền sai lính lấy thuốc rịt vào vết thương rồi cho được theo xe về Kinh đô.

    Khi triều đình mở khoa thi võ chọn người cầm quân cấm vệ, Hưng Đạo Vương đã tiến cử Phạm Ngũ Lão với vua, trong kỳ thi ấy ông đã đỗ đầu và được triều đình giao cho trọng trách chỉ huy đội quân cấm vệ-lực lượng tinh nhuệ nhất và bảo vệ nhà vua và kinh thành. Tương truyền vệ sĩ thấy ông xuất thân không thuộc dòng dõi quý tộc nên có ý không phục xin thách đấu. Ông nhận lời xin phép nghỉ ba tháng để luyện thêm võ nghệ. Sau ba tháng khổ công luyện tập không kể đêm ngày từ môn cưỡi ngựa, bắn cung, đánh côn, quyền roi , kiếm pháp…Phạm Ngũ Lão đều thành thạo điêu luyện. Chỉ còn một môn cắp giáo nhảy qua tường hào luyện mãi vẫn chưa vừa ý. Theo gợi ý của mọi người, Phạm Ngũ Lão đắp gò lớn ở ngoài đồng, cho đất vào ống quần dài buộc túm lại rồi nhảy lên, nhảy xuống.Nhờ kiên trì khổ luyện, cuối cùng ông đã thành công. Hết ngày phép trở lại võ đường cùng các vệ sĩ đua tài. Ông sử dụng quyền cước di chuyển nhanh lẹ, khiến cả trăm người không địch nổi, mọi người đều thán phục.

    Sự Nghiệp​


    Tháng giêng năm 1285, quân Nguyên Mông mượn cớ đánh Chiêm Thành xâm lược nước ta. Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương sắp đặt tướng lĩnh quân đội nghênh chiến. Phạm Ngũ Lão được giao nhiệm vụ giữ Vạn Kiếp và chuẩn bị thế trận. Thời gian đầu thế giặc còn mạnh, quân ta rút lui chiến lược, sử dụng chiến tranh du kích để phân tán tiêu diệt giặc. Từ tháng 5 đến tháng 6 năm 1285, quân ta phản công tiêu diệt hệ thống đồn trại ven sông Hồng giải phóng kinh thành Thăng Long. Phạm Ngũ Lão được củ lên tăng cường cùng các tướng chặn đường rút chạy của giặc. Quân giặc bị tiêu diệt quá nửa.Tướng giặc Lý Quán, Lý Hằng bị bắn chết .Chủ tướng giặc là Thái tử Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát chết. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai toàn thắng.

    Sau chiến công của Phạm Ngũ Lão , ông được người con gái yêu của Hưng Đạo Vương là quận chúa Anh Nguyên ngưỡng mộ thầm yêu, trộm nhớ. Biết tình cảm của con gái nhưng hiềm một nỗi , nhà Trần chỉ được gả con trong dòng tộc. Hưng Đạo Vương đã chủ động linh hoạt “đổi” Quận chúa Anh Nguyên từ con đẻ thành con nuôi để tác hợp mối nhân duyên đó. Giải pháp thông minh của vị tổng tư lệnh quân đội triều Trần đã giúp cho cuộc hôn nhân của con gái mình được trọn vẹn, đồng thời thu nhận thêm được một vị tướng tài đức vào gia tộc họ Trần.

    Tháng 10 năm 1287, Thoát Hoan lại dẫn bộ binh, kỵ binh và thủy binh chia làm ba mũi xâm lược nước ta một lần nữa.Trước sự kháng cự mãnh liệt của quân dân nhà Trần ,quân Nguyên phải tìm đường rút về nước. Theo sự chỉ huy của Hưng Đạo Vương , Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận tiêu diệt giặc trên đường rút chạy của chúng ở sông Bạch Đằng, quân giặc bị đánh tan tác.Phạm Ngũ Lão tiếp tục truy kích trên đường bộ, trực tiếp đối địch với cánh quân do Thoát Hoan chỉ huy tại Nội Bàng. Quân địch bị tiêu diệt quá nửa. Thoát Hoan một lần nữa phải trà trộn vào đám tàn quân chốn về nước.

    Với nhiều công lao trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, năm 1288 vua Trần phong cho Phạm Ngũ Lão là Hạ Phẩm phụng sự, năm 1290 nhà vua phong cho ông làm chỉ huy hữu vệ quân Thánh Dực. Khi đó quân Ai Lao đem hơn một vạn thớt voi cướp phá Châu Hoan , Châu Diễn (thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay). Phạm Ngũ Lão nhận lệnh đi dẹp giặc. Ông chỉ huy quân sỹ chặt tre thành từng khúc, chất đầy hai bên đường. Khi giặc lùa voi xông lên, Phạm Ngũ Lão và quân sĩ cầm gậy tre đánh vào chân voi, voi gầm giống tháo chạy trở lại, dày xéo quân Ai Lao, buộc chúng phải lui binh.

    Năm Giáp Ngọ (1294) , Thượng Hoàng đích thân đem quân đi đánh giặc Ai Lao. Tướng tiên phong Trung Thành Vương bị giặc vây kín, Phạm Ngũ Lão đưa quân đến giải vây, đánh bại quân Ai Lao. Vua ban cho Phạm Ngũ Lão Kim Phù.

    Năm Đinh Dậu (1297) , quân Ai Lao quấy phá vùng sông Tràng Long ở Nghệ An, Phạm Ngũ Lão đem quân tiến đánh, lấy lại được đất cũ được nhà vua ban cho Vân Phù.

    Tháng 10 năm 1298 ông được tấn phong làm Kim nghiêm đại tướng quân ở Hữu Vệ.

    Tháng 4 năm 1299, ông lại được tấn phong làm Thân Vệ tướng quân,kiêm cai quản quân Thiên Thuộc ở phủ Long Hưng.

    Năm Hưng Long thứ 9 (1301), quân Ai Lao cướp phá Đà Giang , Phạm Ngũ Lão đem quân đánh địch ở Mường Mai, bắt sống nhiều quân địch, được phong Thân Vệ đại tướng quân,vua ban cho Quy phù.

    Năm Hưng Long thứ 10 ( 1302 ), Phạm Ngũ Lão đánh dẹp được nghịch thần tên là Biếm, được tiến phong chức Điện Súy và ban Hổ phù.

    Tháng 5 năm 1312 vua cùng các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Chẩn…xuất quân đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm là Chế Chí xin hàng.

    Tháng 8 năm 1318, Phạm Ngũ Lão cùng Trần Quốc Chuẩn phụng chỉ vua đi đánh Chiêm Thành. Quân đội ta đại thắng-Vua phong Phạm Ngũ Lão tước quan Nội hầu, ban cho Phi Ngự Phù

    Ngày 1 tháng 11 năm Canh Thân ( 1320 ), Phạm Ngũ Lão mất tại phủ đệ của vua ban ở vườn cau trong thành Thăng Long, thọ 66 tuổi.Vua phong làm “Thượng đẳng phúc thần”, nghỉ chầu 5 ngày, Thượng hoàng Trần Anh Tông làm bài viếng , có đoạn:


    Bạc phạt Xiêm, Lào chiến tráng du

    Đương thời danh tướng hãn vi trù

    Thành công chi tại năng đông giục

    Bất phụ cao ngấm sí Vũ Hầu

    Dịch:

    Dẹp giặc Lào, Xiêm tỏ tướng tài

    Võ thần mấy kẻ được chen vai

    Dưới cờ một dạ nên công lớn

    Gia Cát trời Nam lại có hai
    Tướng quân Phạm Ngũ Lão văn võ toàn tài, trung thành , liêm khiết, Sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn:” Phạm Ngũ Lão học vấn biểu hiện ở câu thơ, không chỉ chuyên về võ mà dùng vinh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa không ai hơn…”.

    Trong sách “ Lịch triều hiến chương loại chí” Phan Huy Chú viết:” Phạm Ngũ Lão có tài múa giáo, làm thơ, lập nhiều công to, trước sau giữ trọn danh dự, tiếng tăm rõ rệt. Tóm lại đều không hổ thẹn là bậc nguyên thần

    Bút Tích Tiêu Biểu​


    THUẬT HOÀI
    [​IMG]
    Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

    Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu

    Nam nhi vị liễu công danh trái

    Thu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu


    Dịch nghĩa:
    TỎ LÒNG

    Cầm ngang ngọn giáo,giữa non sông đã trải mấy thu

    Ba quân như hùm,như sói cái trí hùng muốn nuốt cả sao Ngưu

    Làm con trai mà không trả xong nợ công danh

    Sẽ phải hổ thẹn khi người ta nói đến chuyện Vũ Hầu


    Dịch thơ:
    TỎ LÒNG

    Múa giáo non sông trải mấy thu,

    Ba quân hùng dũng nuốt sao Ngưu

    Công danh nam tử còn vương nợ,

    Luống thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu



    (Theo Hoàng Việt Thi văn tuyển)​

    (Bùi Huy Trích.NXB Văn hóa-Hà Nội,1957) ​

    Bình
    Âm vang thời đại Đông A với những chiến công hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm Ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông đã in dấu trong nhiều trang viết của các nhà thơ đương thời. Phạm Ngũ Lão "đánh đâu thắng đó" cuĩng ghi lại những cảm xúc của mình qua Thuật Hoài - tác phẩm thể hiện rất đẹp hình ảnh và khí thế của người trai thời đại, cũng là tư thế của dân tộc trong những ngày hào hùng ấy.

    "Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
    Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
    Nam nhi vị liễu công danh trái
    Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

    Bài thơ chữ Hãn vẻn vẹn 28 chữ đã có một dung lượng thông điệp thẩm mỹ lớn, thể hiện khí phách nhà thơ - dũng tướng. Thi ngôn chính là nội dung tư tưởng của thuật hoài, vịnh hoài và cảm hoài. Nhưng sẽ không thể có cái ung dung hào sảng nếu tách bài thơ ra khỏi không khí thời đại bừng bừng "Sát Thát". Bài thơ không tách rời khỏi quỹ đạo tư tưởng của Nho giáo trong mẫu hình người anh hùng cá nhân phong kiến, nhưng trước hết nó là nỗi lòng của người "một thời tuy đã nên tướng giỏi - chí khí anh hùng vẫn khát khao". Giấc mộng công danh luôn là điều ám ảnh của những kẻ sỹ, đại trượng phu thời phong kiến, đi liền với các tước phong: Công Hầu, Khanh Tướng. Nhưng ở "Thuật Hoài", con người đã được phác bằng bằng những câu thơ có sức khái quát cao độ tinh thần dân tộc tự cường.

    Bài thơ là sự phản chiếu một thời đại hào hùng, khi lý tưởng trung quân ái quốc hòa hợp trọn vẹn trong tình cảm tâm hồn của nhà thơ, thời đại "vua tôi đồng lòng, anh em hòa hợp, cả nước ra sức". Tậm tư của Phạm Tướng Quân đã phản chiếu tâm nguyện của bao người trai thời Trần. Ý thức rõ giá trị bản thân, nhận rõ sự gắn bó cá nhân với cộng đồng - dân tộc - đất nước. Xúc cảm hào hùng tỏa sáng trong hình tượng thơ đem đến cho người đọc cái nhìn trọn vẹn về con ngời thời đại Đông A.

    Di Tích và Lễ Hội​

    [​IMG]
    I.Di Tích

    Để tưởng nhớ vị tướng tài danh là người con của quê hương, triều đình đã cho lập đền thờ Tướng quân Phạm Ngũ Lão ngay trên nền nhà cũ của gia đình ông.

    Quần thể di tích Lịch sử-Văn hóa đền Phù Ủng được tọa lạc trên mảnh đất quê hương Ân Thi anh hùng và mến khách, đây là một trong những di tích có giá trị về nội dung khoa học, lịch sử và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của dân tộc ta còn lưu lại trên mảnh đất Hưng Yên văn hiến. Cụm di tích được phân bố thành hai khu .

    Khu ngoài,bao gồm những lăng, đền, nhà bia,…xắp xếp chung quanh đền thờ Phạm Ngũ Lão.

    Khu trong ,bao gồm đền thờ cung phi Tĩnh Huệ, ngôi chùa Cảm Ân và lăng Quốc công Vũ Hồng Lượng.

    Từ quốc lộ 38 vào di tích, nhân dân gọi là đường Cán Cờ.Ở khoảng giữa đoạn đường nổi bật lên một bãi đất to giống như lá cờ.Tượng trưng như lá cờ đại dựng cao trước hàng quân sĩ của Tướng quân mỗi khi xuất trận. Ngay phía trước đền có nhiều mô đất to, nhỏ, nhân dân gọi là mô đai, mô cây sòi, mô quả thừng…Tương truyền, đây là nơi tướng quân Phạm Ngũ Lão luyện tập võ nghệ, nghiên cứu binh thư. Phải chăng đây là dấu tích nơi Hưng Đạo Đại Vương gặp Phạm Ngũ Lão trên đường từ Vạn Kiếp về kinh đô Thăng Long.

    Đền thờ Phạm Ngũ Lão gồm 5 gian tiền tế và tòa hậu cung, kiến trúc kiểu chồng diêm2 tầng 8 mái. Tương truyền ngôi đền nằm ở vị trí có địa thế đẹp”Thất tinh ứng hậu, hình nhân bái tướng, voi quỳ ngựa phục, bên bút bên nghiên;bên cờ bên kiếm…”.

    Bước vào đền thờ Tướng quân Phạm Ngũ Lão, mỗi người chúng ta không khỏi xúc động, dường như được đứng trước khu tượng đài kỷ niệm tưởng nhớ một vị nhân thần có một cuộc đời với những chiến công rạng rỡ. Khói hương huyền ảo và sắc màu vàng son tạo cảm giác thiêng liêng và gần gũi, chứa chan không khí hoài niệm, con người như được trở về thời kỳ oanh liệt hào hùng của lịch sử dân tộc.

    Pho tượng lớn nhất trong đền, tạc Đức thánh Phạm, tượng được đúc bằng đồng nặng trên 300 kg tạo tác phong trong tư thế ngồi trên ngai,mặc áo cẩm bào, đầu đội mũ cánh chuồn , tay cầm ngọc quý,gương mặt cương nghị, đôn hậu thể hiện khá rõ nét sắc thái của một dũng tướng, cương trực và từng trải. Chiếc áo cẩm bào đỏ thẫm như ngọn lửa luôn luôn rực cháy từ trái tim nồng nhiệt của ông .Đứng trước vị thánh như thế, lòng thành xin che trở, phù hộ và tâm nguyện phải làm gì để xứng đáng với cha ông.

    Cùng thờ trong đền còn có tượng quận chúa Anh Nguyên là vợ Phạm Ngũ Lão.

    Nơi đây còn lưu giữ được nhiều hoành phi, câu đối đại tự, sắc phong của các triều đại cùng các hiện vật quý hiếm như ngai, bài vị, ấm chén bạc v.v…nổi bật là 3 bức đại tự “ Phù Ủng linh từ”, “ Đông A Điện súy”, “Vạn tuế phúc thần”…

    Đền Mẫu thờ mẹ của Phạm Ngũ Lão kiến trúc thời Nguyễn, gồm 3 giai đoạn tiền tế, hai gian hậu cung, trong đền có tượng mẹ của Tướng quân Phạm Ngũ Lão bằng gỗ và bốn pho tượng người hầu bằng đá thời Trần, tương truyền tượng làm bằng đá lấy từ ải Chi Lăng (Lạng Sơn). Khi Phạm Ngũ Lão làm tướng triều Trần, giặc Nguyên căm tức. Chúng đã bắt mẹ Phạm Ngũ Lão cùng một số dân trong làng đem lên ải Chi Lăng, nhằm ép Phạm Ngũ Lão ra hàng. Bà đã thắt cổ tự vẫn để tỏ rõ khí tiết. Bà được vua tặng bốn chữ “Nghiêm ứng thánh mẫu”, dân làng lập đền thờ gọi là đền Mẫu. Hàng năm, tổ chức cúng giỗ vào ngày 3 tháng 6 âm lịch, ngày bà tuẫn tiết.

    Bên phải đền Mẫu có Khuê Văn Các kiến trúc cổ kính 12 mái lợp ngói ống, xưa kia đây là nơi các quan trong triều về tế lễ tới đây bình thơ văn và ngoạn cảnh.

    Bên trái đền thờ Phạm Ngũ Lão, có lăng Đức Tiên Công, thân phụ Phạm Ngũ Lão.Lăng được khởi dựng từ thời Trần do Phạm Ngũ Lão xây dựng lăng mộ cho cha mình.Phần chính lăng xây hình chóp long đình, phần mộ hình lục lăng, có thềm đá xung quanh, lăng có tắc môn, cột đồng trụ và hai tam môn 2 bên. Cạnh lăng có ao tầm sét, tục truyền đó là mắt rồng; Khu lăng mộ quanh năm được che phủ dưới bóng mát của những cây cổ thụ có tuổi khoảng từ 200 đến 300 năm.

    Cách đền chính không xa ( khu trong ) có chùa Bảo Sơn, tương truyền do Phạm Ngũ Lão xây dựng. Năm 1948, hai chùa bị thực dân Pháp phá hủy chỉ còn lại tam quan hai tầng, tám mái soi bóng xuống dòng sông Cửu An. Năm 1999, nhân dân đầu tư kinh phí phục dựng lại chùa theo kiểu dáng kiến trúc xưa.

    Tương truyền Phạm Ngũ Lão có con gái là Tuệ Tĩnh, làm thứ phi vua Trần Anh Tông. Cuối đời bà xin xuất gia tu tại chùa Bảo Sơn, dựng phủ điện phía bên đông chùa, làm nhà riêng ở đằng sau để làm nơi thờ cúng tổ tiên.Khi làm xong,đức Thượng hoàng Trần Minh Tông ngự tới xem ban cho chữ đề biển vàng, đổi tên chùa là “Cảm Ân Tự” . Khi bà mất nhân dân lập đền thờ bà trên nền nhà cũ.Năm 2004, đền thờ cung phi Tĩnh Huệ được trùng tu lại quy mô như ngày nay. Trong đền đặt hương án, đồ thờ, nổi bật là bức tượng Cung phi Tĩnh Huệ và bức đại tự “Hiếu kính toàn đức”.

    Trong cụm di tích còn có lăng Quốc công Vũ Hồng Lượng là người làng Phù Ủng, làm quan dưới triều Hậu Lê.Sinh thời ông có công đức tu sửa đền thờ Phạm Ngũ Lão và đặt ra sự lệ cho làng thờ cúng. Lăng Vũ Hồng Lượng được khởi dựng năm Canh Tý ( 1660 ), niên hiệu Vĩnh Thọ thứ3 thời Lê Thần Tông. Đây là một công trình trạm khắc đá nổi tiếng thời Hậu Lê, chạm khắc tinh xảo hình người, con giống và hoa lá.

    Về thăm di tích Lịch sử- Văn hóa đền Phù Ủng, cảm nhận đầu tiên của du khách có lẽ đó là vẻ bề thế, khoáng đạt của các hạng mục công trình, đan xen trong từng hạng mục là các cây đại thụ, tạo cho khu di tích một không gian u tịch đượm vẻ linh thiêng.

    II.Lễ Hội

    [​IMG]

    Hàng năm, lễ hội truyền thống đền Phù Ủng tổ chức từ ngày 25 tháng chạp, với lễ mục dục ( lau rửa đồ tế khí , tắm tượng ) đảm bảo sạch sẽ, tăng thêm sự linh thiêng. Đêm giao thừa có lễ chúc thánh. Sáng mồng 1 có lễ khai xuân, rước bằng sắc của Phạm Ngũ Lão. Chính hội tổ chức vào ngày 11 tháng giêng âm lịch, tương truyền là ngày Phạm Ngũ Lão ra quân đánh giặc giữ nước, có đại lễ, tế nội tán, ngoại tán- đây là ngày sôi động nhất với nghi thức rước cung phi Tĩnh Huệ từ phủ Chúa về lăng Phạm Tiên Công ( trình ông ) sau đó rước về đền thờ Phạm Ngũ Lão ( trình cha ). Khác với lễ rước kiệu của một số địa phương khác, ở lễ rước kiệu cung phi Tĩnh Huệ người dân cùng với quý khách thập phương chen nhau để được chui qua gầm kiệu. Với một suy nghĩ tâm linh là làm như vậy mọi ước muốn của mình sẽ thành hiện thực(!)

    Trong những ngày diễn ra lễ hội, nhiều đội tế các vùng đến tế lễ rất đông. Trong đền chính cung văn hát chầu suốt ngày đêm. Khu vực ngoài đền diễn ra các hoạt động Văn hóa, Thể thao và đặc biệt là các trò chơi vui nhộn diễn lại các tích xưa như:vật cù, hát trống quân, múa rối nước…Đây là điểm hội tụ giao lưu văn hóa vùng, miền tạo nên một không khí lễ hội trang trọng và đậm đà bản sắc dân tộc góp phần nâng cao đời sống văn hóa hướng tới những giá trị chân - thiện - mỹ.

    [
    [​IMG]



    Tài liệu tham khảo:
    1. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí - Phan Huy Chú
    2.Khâm Đinh Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Quốc Sử Quán Triều Nguyễn
    3. Việt Sử Giai Thoại 3 / 71 giai thoại thời Trần - Nguyễn Khắc Thuần
    4. Danh Tướng Thời Trần - Nguyễn Khắc Thuần
    5. Wepside Quân sự Việt Nam: http://www.quansuvn.net/index.php?topic=562.15;wap2
    6. Wepside họ Phạm Việt Nam: http://www.hophamvietnam.org/
    7. Phim tài liệu:Tướng quân Phạm Ngũ Lão và cụm di tích làng Phù Ủng do Đài PT - TH Hưng Yên thực hiện T8/2010
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/6/11

    Bình Luận Bằng Facebook

  2. Theo mình đây chỉ là Thiên Tuế thôi chứ, vua mới được xưng là vạn tuế :):)
     
  3. Thanh Tùng

    Thanh Tùng Thành viên Bị cấm

    Nếu có cơ duyên thì mời bạn về đền Phù Ủng - Hưng Yên và tìm hiểu thêm về thần tích và sắc phong của đức ông nhé. Hoặc bạn cũng chịu khó đọc hết note của mình thì sẽ hiểu hết ngay thôi. Ko nên luận giải theo suy nghĩ của cá nhân ak. :). Vài lời góp ý. Thân:)
     
  4. Bạn có thể chụp tờ sắc phong của Điện Soái Phạm Tướng Quân post lên đây mình đọc xem thế nào :):) Cảm ơn bạn nhiều :):)
     
  5. Thanh Tùng

    Thanh Tùng Thành viên Bị cấm

    Bạn ak, nếu bạn thực có lòng muốn tìm hiểu về thần tích nhà Ngài thì mời bạn về đền Phù Ủng, Trước là lễ thánh và thăm quan di tích, sau là tìm hiểu thần phả, sắc phong, hoành phi, đại tự tại đền để rõ thêm về Đức Ông nhé.
     
  6. Cảm ơn lời mời của bạn nhiều, ngôi đền này mình đã được đi qua rồi, nhưng khách thì không bao giờ nhà đền lấy thần tích sắc phong ra cho xem cả, mà chỉ có thổ công ở đó mới dễ xem hơn thôi :):) Bạn có thể giúp mình chụp những đạo sắc phong này lên không, cũng vừa là quảng cáo thần tích và Mỹ Tự của Thánh lên :):) Bạn cứ chụp đăng lên, mình sẽ đọc giúp :):) Mình up ví dụ 1 tờ sắc đời Cảnh Trị phong cho Thánh Tam Giang nhé :
    [​IMG]
     
  7. Thanh Tùng

    Thanh Tùng Thành viên Bị cấm

    Bản thân mình thì ko biết chữ Hán, những đạo sắc phong mình được biết thì đều có người đọc và dịch cho nghe. Thần phả và sắc phong tại đền đức đại vương Phù Ủng cũng ko ngoại lệ. Còn điều như bạn thắc mắc thì cái đó ở ngay bức đại tự ở cung đệ nhị của đền, bạn về đền rồi chắc hẳn bạn cũng đã chú ý ( nếu là bạn biết chữ ) Ba bức đại tự nổi bật nhất treo ở các cung đệ nhất đệ nhị và đệ tứ. Đều có đề rất rõ việc này. Cho nên cũng ko cần phải nhìn vào 6 đạo sắc phong của các triều ban cho Ngài. Vả nữa là mình cũng ở HN, cho nên cơ duyên được về và chiêm bái không nhiều, nhân duyên đã đc nghe và giải thích một lần thì ngẫm và nhớ, chứ ko có chụp lại ảnh và mang về bạn ak. Thân và rất cảm ơn những góp ý của bạn
     
  8. conchudangyeu

    conchudangyeu Thành viên Bị cấm

    bạn có vẻ kĩ tính nhỉ . Nếu nhưng chúng ta ai cũng có thể đến đền mà mở đạo sắp phong ra mà xem thì cái oai linh của nha ông thánh đâu hết . hôi xưa , chỉ trong các dịp lễ trọng đai của làng , hay công việc triều đình , các bặc bô lão trong làng cùng với đồng đền thủ nhanh mới họp nhau , sửa soạn , lễ bãi , xin phép ngài cho mang sắc phong ra để tuyên đọc hay trình lên triều đình để xét công lao phong thân thôi . Nếu mà ai cũng được động vào sắc phong đó thì khác gì là tờ giấy nháp à ?
     
  9. Đó là đội quân lễ bộ trong 1 làng, còn với người đến để học hỏi, tìm tòi, và muốn biết được công trạng của vị Thành Hoàng thì cũng nên xem được, mình cũng đến nhiều đền cũng thích xem những bản thần tích và sắc phong :):) Tất nhiên trước khi xem phải lễ xin phép các vị thần, vì đây là dấu ấn của Vua ban ân điển cho họ :):) để lâu trong hộp quá thì cũng chỉ là món ăn sảng khoái cho mọt và gián :):) nên thỉnh thoảng bỏ ra phơi thì chúng mới sợ được :):)
     
  10. Thanh Tùng

    Thanh Tùng Thành viên Bị cấm

    :)), thực tế là mình cũng như thế, cứ kiểu hóng hớt buôn dưa xong xin xỏ một tý, các cụ hợp là các cụ cho vào xem đấy. =))
     
  11. Thanh Tùng

    Thanh Tùng Thành viên Bị cấm

    Anh Trí Minh giúp em gộp bài viết này với bài viết Đông A Điện Súy Thượng Tướng Quân - Quan Nội Hầu - Vạn Tuế Thượng Đẳng Phúc Thần Phù Ủng Đại Vương làm một bài ak :), Lấy tiêu đề Lục Bộ Tướng Thánh Nhà Trần nhé anh. Em cảm ơn anh nhiều ak/

    Yết Kiêu và Dã Tượng

    Thời Trần, tất cả các quý tộc và quan lại đều có gia nô, thậm chí có quý tộc gia nô đông đến hàng ngàn người. Đã là gia nô thì phải suốt đời phục dịch cho chủ, và trong xã hội, không ai có địa vị thấp hèn như họ cả. Thường thì họ bị chủ khắc dấu vào thân thể, kể như vật sở hữu riêng. Khi chủ chết, có khi họ còn bị đem đi hoả thiêu hoặc chôn sống theo chủ.
    Thân phận tuy khổ nhục như vậy, nhưng khi vận nước lâm nguy, chính họ lại có những cống hiến xuất sắc. Thời ấy, Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô…. Là những đại biểu nổi bật nhất của họ.
    Năm 1285, quân Nguyên ào ạt kéo sang xâm lược nước ta lần thứ 2. Trong trận Bãi Tân (một địa điểm trên sông Lục Nam) có một mẩu chuyện về họ rất cảm động. Số là khi đến chỉ huy trận đánh này, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dùng thuyền, có hai gia nô của ông là Yết Kiêu và Dã Tượng cùng đi. Đến bãi Tân, Trần Quốc Tuấn giao cho Yết Kiêu ở lại giữ thuyền, còn Dã Tượng thì theo hộ vệ. Quân của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn không sao cản nổi bước tiến vũ bão của giặc, trở lại đường cũ thì có phần nguy hiểm nên Trần Quốc Tuấn định theo đường núi mà rút lui. Dã Tượng thấy vậy liền thưa: “Yết Kiêu chưa thấy Đại vương thì nhất định không chịu rời thuyền”. Trần Quốc Tuấn trở lại Bãi Tân, quả thấy Yết Kiêu đang cắm thuyền đợi, bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy đến. Vừa mừng, vừa cảm động, Trần Quốc Tuấn nói: “Chim hồng hộc muốn bay cao tất phải nhờ ở sáu trụ xương cánh. Nếu không có sáu trụ xương cánh ấy thì cũng chỉ như chim thường mà thôi”. Nói xong, liền lên thuyền mà đi, giặc không sao đuổi kịp.

    Lời bàn:
    Chó ngắn mõm thì gọi là Yết Kiêu, voi rừng thì gọi là Dã Tượng. Lấy tên thú đặt cho gia nô, không bàn cũng đủ biết thân phận gia nô thấp hèn như thế nào. Song, tận trung vì đại nghĩa cứu nước, ai dám bảo Yết Kiêu và Dã Tượng không thể sánh ngang hàng với các bậc hào kiệt khác. Đúng như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói, sở dĩ có được các bậc anh hùng cái thế như chính Trần Quốc Tuấn, tất trước phải có sự trợ thủ đắc lực của những người như Dã Tượng, Yết Kiêu.

    (Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần)​


    Yết Kiêu

    Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, con trai của Phạm Hữu Hiệu và bà Vũ Thị Duyên.
    Yết Kiêu là anh hùng chống giặc ngoại xâm vào đời nhà Trần. Ông là người bơi lặn giỏi, đã sử dụng tài của mình để đục thuyền của quân xâm lược Nguyên Mông. Ông tên thật là Nguyễn Hữu Thế, con trai của Nguyễn Hữu Huệ và bà Vũ Thị Duyên, quê tại Hạ Bì (nay thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Ông là cận vệ (gia nô) đắc lực cho Trần Hưng Đạo.

    Yết Kiêu người làng Hạ Bì, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Nhà nghèo, hằng ngày ông phải đi mò cua bắt ốc, bắt cá đem bán lấy tiền đong gạo nuôi thân. Ông có sức khỏe và dũng cảm lạ thường. Một hôm thấy hai con trâu trắng đang húc nhau trên bãi cát, ông dùng đòn gánh phang, cả hai con trâu chạy biến xuống nước. Ông mới biết hai con trâu mình vừa đánh là trâu thần, sờ lại đầu đòn gánh thì thấy còn dính vài cọng lông, ông liền nuốt lấy, từ đó mà ông bơi lặn giỏi. Ông lội nước hàng mấy dặm như đi trên đất và thường lặn lội bắt cá, mò trai cả ngày dưới nước.
    Vì có tài, ông trở thành người nhà của Trần Hưng Đạo. Cùng với Dã Tượng, ông được Hưng Đạo vương hết sức tin yêu. Ông và Dã Tượng khuyên Trần Hưng Đạo bỏ thù nhà, dốc sức vào việc đánh giặc cứu nước.
    Khi giặc Nguyên sang xâm lược năm 1284, lúc đầu quân Đại Việt thế yếu hơn địch. Một lần, trước thế giặc đương hăng, quan quân nhà Trần ở Nội Bàng (Chũ, Bắc Giang) bị thua kéo thuyền bỏ chạy về Vạn Kiếp (Hưng Yên). Một mình ông cắm thuyền ở lại bến Bãi trên sông Lục Nam, chờ đón kỳ được Trần Hưng Đạo và Dã Tượng rồi mới chèo thuyền lướt như bay, quân kỵ của địch theo không kịp. Trần Hưng Đạo thoát hiểm nhờ lòng quả cảm và tinh thần kỷ luật của Yết Kiêu không rời bỏ vị trí chiến đấu khi chưa có lệnh. Cảm kích trước lòng trung nghĩa của Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo nói: "Ôi, chim hồng hộc sở dĩ bay cao được cũng là nhờ có sáu trụ xương cánh cứng rắn, nếu không, hồng hộc cũng chỉ như chim thường thôi!". Ý Trần Hưng Đạo muốn nói: người tướng tài giỏi, nổi tiếng phần lớn cũng là nhờ những người chung quanh mình ra sức làm việc, phò tá, nếu chỉ có một cá nhân mình thì không sao có thể làm nên sự nghiệp lớn.
    Bấy giờ, giặc Nguyên kéo mấy trăm chiếc thuyền theo đường biển vào đánh chiếm Đại Việt. Yết Kiêu không quản mùa đông giá rét, đêm đêm lặn xuống biển, nằm dưới đáy thuyền, lấy dùi sắt nhọn đục thủng thuyền. Thuyền giặc bị nước biển chảy ồ vào, chìm ngay. Quân giặc sợ lắm. Lúc đầu chúng không hiểu vì lẽ gì. Sau giặc chăng lưới vây bắt được Yết Kiêu. Chúng hỏi ông:
    - Nước mày có bao nhiêu người có tài bơi lặn như mày?
    Ông đáp:
    - Nước Nam có rất nhiều người có tài bơi lặn như tôi. Hiện nay họ vẫn ẩn nấp ở dưới biển để đục thuyền, chỉ một mình tôi chẳng may bị bắt. Nếu các ông tha tôi ra tôi sẽ dẫn các ông đến chỗ họ ẩn nấp, tha hồ cho các ông bắt.
    Bọn giặc hí hửng vì tưởng bở, chúng lấy một chiếc thuyền nhẹ chở ông đi. Thừa lúc giặc sơ ý và không nhìn thấy, ông nhảy tùm xuống biển, lặn trốn về doanh trại quân ta, tiếp tục cùng quân dân ta đánh giặc cứu nước. Quân giặc đành trơ mắt nhìn nhau căm tức.
    Đời sau có thơ vịnh:
    Hồ hải xông pha tỏ chí mình,
    Không hề lặn lội cứu sinh linh.
    Giữa sông cung kiếm trừ yêu quái,
    Đáy nước khoan thuyền bắt Bá Linh.
    Cướp vía Thoát Hoan khi đắc báo,
    Giúp oqi Hưng Đạo lúc hành binh.
    Một mai phá giặc thành công lớn,
    Rạng vẻ trời Nam một tướng tinh.​


    Hiện nay vẫn còn đền thờ Yết Kiêu, gọi là đền Quát, thuộc tả ngạn sông Đò Đáy, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Tên của ông được đặt tên cho một phố ở Hà Nội, nơi có trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội mà thường được biết đến với tên gọi Mỹ thuật Yết Kiêu.

    Dã Tượng

    Dã Tượng (? - ?), một gia nô thân tín, trung thành của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tương truyền Ông rất giỏi huấn luyện voi, đã lập nhiều chiến công trong Kháng chiến chống Nguyên - Mông, đời Trần. Ông cùng với Yết Kiêu, Cao Mang, Đại Hành và Nguyễn Địa Lô là 5 thuộc hạ tài giỏi và trung thành của Hưng Đạo Vương. Trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, ông đóng góp đắc lực, tận tình bảo vệ chủ tướng. Chính ông và Yết Kiêu có công lớn lúc bắt Toa Đô.
    Có lần Hưng Đạo Vương thử ý ông mà nói: "Khi gia nghiêm ta từ trần có dặn bảo ta phải chiếm lấy thiên hạ. Các ngươi nghĩ sao?". Ông và Yết Kiêu đều nói: "Đại vương đã phú quý rồi, còn chúng tôi đến già vẫn làm gia nô, không muốn làm như thế, để tiếng xấu ở đời." Hưng Đạo Vương cảm động, từ ấy ông càng được tin trọng.
    Tháng 1, 1285, do chưa lường hết sức mạnh của địch, Hưng Đạo Vương đã đem đại binh ngăn cản Thoát Hoan tại ải Nội Bàng. Kết quả trận đánh là quân Trần thua to, cả vạn binh lính bị giết và bắt sống tại trận. Lúc khởi binh, Hưng Đạo vương có dặn Yết Kiêu cắm thuyền đợi mình. Nhưng lúc tàn trận, Thuỷ quân đóng ở Bãi Tân làm chặn hậu cũng chạy tan tác cả. Trong lúc tháo lui khẩn cấp, Hưng Đạo định dẫn tàn quân luồn rừng về Vạn Kiếp, nhưng đúng là không ai hiểu bạn bằng Dã Tượng, đã ngăn Vương lại và bảo: "Kiêu chưa gặp Đại vương, ắt chưa nhổ thuyền đi nơi khác.", nghe thế, Hưng Đạo Vương bèn tức tốc đổi hướng tới bãi Tân. Quả nhiên trên bãi sông vẫn còn một con thuyền đứng đó cùng với viên tuỳ tướng. Thoát nạn, Hưng Đạo Vương ngửa mặt lên trời than “Chim hồng chim hộc bay được cao, tất phải nhờ có lông cánh mạnh, nếu không thì chả khác gì chim thường”.
    Năm 1288, trên đường hành quân chuẩn bị cho trận Bạch Đằng nổi tiếng, con voi chở Hưng Đạo Vương bị sa lầy, chìm dần xuống bùn. Dù đã nhiều cách nhưng rồi con voi chiến thân thiết của Đại Vương cứ lún dần, lún dần. Dã Tượng và Hưng Đạo Vương nhìn người bạn đường chiến đấu thân thiết sắp hy sinh mà nước mắt lưng tròng. Dã Tượng bèn quỳ xuống trước mặt Vương xin người xuống ngựa đi tiếp cho kịp ra quân, còn mình xin ở lại rồi sẽ đuổi theo sau. Trong trận đánh sau đó, Dã Tượng giữ một cánh quân bộ trên núi Tràng Kênh đánh hất đám quân của Phàn Tiếp xuống sông. Viên gia tướng đã tả xung hữu đột, máu giặc ướt đẫm cả người, lao vào địch cứ như chỗ không người, như thể để trả thù cho người bạn voi đã hy sinh trên đường ra trận. Phàn Tiếp khiếp sợ đã bỏ lính, để nguyên cả tên găm trên người nhảy xuống sông chạy trốn nhưng rồi vẫn bị quân Trần dùng câu liêm móc lên, bắt sống.

    Nơi thờ chính của tướng quân Dã Tượng hiện nay có hai nơi:
    Đình Câu Dương ở làng Câu Dương, thuộc xã Thụy Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, có bài vị thờ Dã Tượng
    Đền A Sào thuộc xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đền thờ Trần Hưng Đạo cùng hai tướng Yết Kiêu và Dã Tượng. A Sào là nơi công phủ khi Hưng Đạo Vương 18 tuổi mới được phong tước Thượng Vị Hầu, vâng mệnh đến trông coi kho gạo của triều đình trong hơn 3 năm. Thời Trần Nhân Tông, ông giữ chức Tiết chế thống lĩnh các doanh thủy bộ, đánh tan 50 vạn quân Nguyên sang xâm lược nước ta do Thoát Hoan cầm đầu. Vua truyền cho thôn A Sào sửa chữa nhà cũ để làm sinh từ của vương. Sau khi ông mất, trong đền thờ tượng của ông và cả tượng Yết Kiêu, Dã Tượng. Bên bờ sông Hóa gần đó có tượng một con voi do Hưng Đạo Vương sai đắp để tưởng nhớ con voi trận mà ngài cưỡi khi qua sông Hóa đuổi quân Ô Mã Nhi. Voi lội bùn sâu không rút chân lên được nên phải bỏ lại. Bến sông nơi ấy được gọi là Bến Voi.

    Còn tiếp....
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/7/11
    1 person likes this.
  12. Trí Minh

    Trí Minh Active Member

    báo cáo Tùng anh đã thực hiện xong nhé. À Đền Trần trong khu khuân viên chùa quê anh cũng thờ Đức Đại Vương ở giữa và nhị vị Yết Kiêu, Dã Tượng hai bên chứ không thấy tượng Phạm điện súy. 3 pho tượng cổ có từ năm 1828 đẹp lắm luôn.
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/7/11
  13. Thanh Tùng

    Thanh Tùng Thành viên Bị cấm

    E ko dám ak :)), Vâng em cảm ơn anh nhiều. Đền Trần có tượng tướng yết kiêu dã tượng ấy ak? ớ sao em ko để ý thấy nhể? Hix, :((
     
  14. Trí Minh

    Trí Minh Active Member

    Ngôi đền Trần ở cùng khuân viên với ngôi chùa anh trông coi cơ, Đức Thánh Ngồi giữa đội mũ tử vi tay cầm tẩu thuốc, nhị vị gia tướng ngồi hầu hai bên đội mũ cánh chuồn. Bộ tượng ở đền Trần chùa anh rất độc đáo, mai anh sẽ chụp hình đăng lên cho mọi người chương ngưỡng nhé.
     
  15. Thanh Tùng

    Thanh Tùng Thành viên Bị cấm

    Vâng ak, nếu có kèm thêm bản giới thiệu về di tích đền và chùa thì tốt quá ak :D
     
  16. Trí Minh

    Trí Minh Active Member

    Anh sẽ cố gắng, định chụp từ hôm nay nhưng cái máy chụp hình của anh chẳng nhớ nổi cho ai mựon nữa, hic hic.
     
  17. Trí Minh

    Trí Minh Active Member

  18. Thanh Tùng

    Thanh Tùng Thành viên Bị cấm

    em mới xem xong đấy ak. Đẹp lắm anh :)
     
  19. Thanh Tùng

    Thanh Tùng Thành viên Bị cấm

    Hùng Thắng Tướng Quân


    "Hùng Thắng tôn thần thiên thu tại
    Quận công dũng tướng vạn cổ liêu"

    Dịch nghĩa:

    Tôn thần Hùng Thắng ngàn năm còn đó
    Dũng tướng quận công vạn thuở vẫn lưu danh


    Tướng quân Vi Hùng Thắng con cụ Phúc Tính và bà Từ Duyên, là hậu duệ 6 đời của cụ tổ họ Vi ở làng Vai, xã Kim Sơn, huyện Lục Ngạn ngày nay.
    Cuối thế kỷ XIII (1285-1287) quân xâm lược Nguyên Mông lại một lần tiến vào đất Việt. Với nghĩa khí sát thát (giết giặc Nguyên Mông) từ hội nghị Diên Hồng, dưới sự lãnh đạo của vua tôi triều Trần, quân và dân ta đã nhất tề đứng dậy.
    Trước họa xâm lăng, vua xuống chiếu chiêu hiền đãi sỹ, tìm người tài ra giúp vua đánh giặc. Cùng với các tướng Trần Sầm, Đỗ Hựu, Đỗ Vỹ, Nguyễn An, Trần Bách, Vi Hùng Thắng được vua tin dùng trấn giữ cả một vùng rộng lớn Sơn - Lục. Cuối tháng Giêng năm 1285, Thoát Hoan mang đại quân tràn vào bờ cõi, một trận chiến diễn ra tại cửa khẩu Khả Li (Xa Lý), hai tướng nhà Trần là Đỗ Vỹ và Đỗ Hưng tử trận. Với thế mạnh ban đầu, quân giặc tiếp tục tràn qua Động Bản (khu vực Biển Động ngày nay). Tướng Trần Sầm bị hy sinh, phòng tuyến của ta bị vỡ. Quân giặc thừa cơ tiến xuống và biết Trần Quốc Tuấn cùng quân sỹ đang trên đất Nội Bàng nên chúng vừa cho người tới dụ hàng, vừa tổ chức bao vây đã gây cho quân ta gặp nhiều khó khăn, tướng Đoàn Thại bị tử trận. Trước tình thế đó, Vi Hùng Thắng đã chỉ huy một đạo quân phối hợp đánh chặn, tạo điệu kiện để Trần Hưng Đạo xuống thuyền rút xuôi theo dòng sông Lục.
    Tháng 5-1285 quân dân nhà Trần bắt đầu tổ chức phản công, quân giặc Nguyên Mông do Thoát Hoan cầm đầu lần lượt bị tiêu diệt và cuối cùng tìm đường tháo thân. Thoát Hoan thoát chết nhờ chui ống đồng cùng đám quân bại trận rút chạy khỏi bờ cõi. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2 của quân dân ta kết thúc thắng lợi.
    Mặc dù bị đại bại qua 2 lần xâm lược, nhưng giặc Nguyên Mông chưa từ bỏ dã tâm xâm lược. Mùa đông năm 1287, chúng lại đem quân xâm lược nước ta lần thứ 3, buộc quân dân Na Ngạn, Phượng Nhỡn thêm một lần đứng lên cùng triều Trần chiến đấu bảo vệ nền độc lập của xã tắc tổ tiên. Từ Xa Lý, Biển Động, giặc tiến xuống Bình Nội, bị quân ta phục kích tiêu diệt. Đây là trận chiến ác liệt diễn ngày 1-2-1288. Tiếp đó là những trận giao tranh liên tục bên bờ sông Lục. Trong đó có trận diễn ra tại đồi Tân Dã, Vi Hùng Thắng cùng 2 tiểu tướng là Nông Thị Tâm và Lâm Văn Cường hy sinh ( ngày 20-2-1288 ). Thi hài ông và các tiểu tướng hy sinh được nhân dân địa phương chôn cất tại rừng bên. Sau này đền thờ ông được lập để nhân dân tỏ lòng thành kính.
    Khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên của quân dan ta kết thúc thắng lợi, triều đình xét thấy tướng quân Vi Hùng Thắng là người có công lớn trong công cuộc giúp vua giữ gìn bờ cõi nên đã phong ngài bằng hàng chữ:
    "Sinh vi tướng, tử vi thần,
    Hùng Thắng uy linh vầng nhật nguyệt."​

    Nghĩa là:
    Sinh ra làm tướng, chết đi làm thần,
    Tên tuổi Hùng Thắng oai phong linh ứng cùng mặt trời, mặt trăng.​

    Đã hơn 700 năm kể từ khi người anh hùng nằm xuống, các di vật cũng như tài liệu của đền không còn với nguyên xưa, nhưng theo nhân dân thôn Hà Thị (chủ di tích) thì nơi đây chính là mảnh đất chôn cất ông. Dù chính sử không nhắc đến ông, nhưng tên tuổi và công trạng của ông lại được các sách ở đền Kiếp Bạc ghi nhận.
    Hiện nay, đền Khánh Vân ( thuộc đồi Tân Dã thôn Hà Thị, nay là Thanh An, thị trấn Chũ ). Dân vùng Chũ vẫn quen gọi đây là đền Quan Quận ( Tướng quân Hùng Thắng được thiên triều sắc phong tước Quận Công ) là đền thờ chính của tướng quân Hùng Thắng đền Khánh Vân được tu dựng trên nền đất cũ thuộc loại hình lưu niệm danh nhân. Tượng ngài được đặt ngồi chính gian giữa, hai bên thờ các tướng thời Trần đã cùng ông đánh giặc như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão…
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/7/11
  20. damquangvinh

    damquangvinh New Member

    @ thanh tùng .
    tuyệt vời !!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
    những trang vàng lịch sử dân tộc chói lọi .
    những người anh hùng dân tộc vĩ đại !
    Sinh vi tướng, tử vi thần.

    khiến đời đời con cháu chúng ta mãi mãi ngưỡng mộ .
    thật không biết nói gì hơn .
    cảm ơn đời , cảm ơn tất cả .
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/7/11

Chia sẻ trang này