[TABLE="width: 96%"] [TR] [TD="align: left"]Làng Thanh Tương, xã Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh còn có tên nôm là làng Tướng. Vùng quê bờ Nam sông Đuống này được biết đến là nơi khơi nguồn, gìn giữ và góp thêm cho đất Kinh Bắc ngàn năm văn vật một di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc. Đó là nghệ thuật hát ca trù, hay còn gọi là hát cô đầu, hát nhà trò. Chùa Dâu Thanh Khương, nơi thường diễn ra những sinh hoạt ca trù ở Thanh Tương Phát tích ở vùng đất thiêng Trong dòng chảy văn hóa của dân tộc, ca trù Thanh Tương đã từng làm say đắm biết bao những thế hệ tao nhân mặc khách chốn phồn hoa, tạo nên một không gian văn hóa riêng, gắn liền với xứ sở của chùa Dâu, chùa Bút Tháp và thành Luy Lâu- trung tâm Phật giáo của quốc gia phong kiến Đại Việt xưa. Tương truyền, Thanh Tương nằm ở ngay cửa Bắc thành Luy Lâu bên bờ sông Đuống xưa. Dưới thời đô hộ của nhà Hán, người làng đã có nghề ca hát phục vụ quan lại cai trị đóng ở trong thành. Khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng kéo về đánh chiếm thành Luy Lâu, ca nương Biểu Phật Nương người Thanh Tương đã làm nội ứng mở cổng thành cho quân Hai Bà kéo vào công chiếm, phá thành. Biểu Phật Nương trở thành nữ tướng tuỳ tùng của Hai Bà. Sau khi khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, dân Thanh Tương đã lập đền thờ tưởng nhớ nữ tướng Biểu Phật Nương và làng Thanh Tương còn được biết đến với tên gọi làng Tướng từ đó. Cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, người Thanh Tương cũng luôn nhắc nhở nhau phải biết giữ lề thói quê nhà, giữ đạo làm nghề. Cũng vì vậy mà ca trù làng Tướng được xã hội phong kiến đương thời trân trọng tôn vinh. Nghệ thuật ca trù đã như sợi tơ hồng chắp mối lương duyên cho nhiều thôn nữ Thanh Tương với những bậc văn nhân, hiền sỹ tài danh. Thời kỳ thuộc địa nửa phong kiến, nghệ thuật ca trù nói chung bắt đầu có những biến thể. Đâu đó ở Khâm Thiên, Ngã Tư Sở giữa đất kinh kỳ người ta có thể bắt gặp những cô đầu rượu, cô đầu ca kỹ. Trong ánh mắt người đời khi ấy nhìn những đào kép cầm phách gõ trống, đàn hát ca trù mất dần sự ưu ái thiện cảm. Ca trù được xem như thú mua vui tiêu sầu hạ đẳng của một nhóm thị dân. Song theo hồi ức của lớp những nghệ nhân ca trù làng Tướng, đó chỉ là con sâu làm rầu nồi canh. Người hát ca trù chân chính đã biết tự vượt lên chính mình, khẳng định sự trường tồn của bộ môn nghệ thuật đặc sắc, đầy tính bác học này. Tuy vậy, nghiệp cầm ca của người dân làng Tướng cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Người học hát dần thưa vắng trong khi lớp người biết hát ngày một già đi. Người làng Tướng sẽ mãi không quên những giọng ca vàng nơi thôn quê của cụ Thủy, cụ Toàn, cụ Thông; gia đình ca trù nhà cụ Thai cho dù họ đã về nơi chín suối. Báu vật của làng Số người biết hát ca trù ở Thanh Tương hiện thời chỉ đếm trên đầu ngón tay. Lớp nghệ nhân già thuở trước còn nhớ tới các cụ Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Dây và Nguyễn Thị Thiệp- ba chị em trong một dòng họ. Mỗi người một cung bậc khác nhau những ở họ đều có một điểm chung là vốn hiểu biết uyên thâm và lòng đam mê nghệ thuật ca trù. Đáng tiếc là cụ Kỳ, cụ Dây cũng đã về với tiên tổ ở tuổi 80. Cả làng chỉ còn duy nhất cụ Thiệp - người được ví như báu vật nhân văn sống của địa phương cũng đã ngoài 80 tuổi. Đi hát từ năm 16 tuổi, bằng khả năng nhạc cảm, thẩm âm và trí nhớ mẫn tiệp của mình, cụ Thiệp đã thuộc nằm lòng 36 điệu hát ca trù cổ, từ "Chinh phụ ngâm" cho đến các điệu "Tỳ bà" "Cung Bắc", "Gửi thư". Nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp (ngồi giữa) Suốt cuộc đời vừa gắn bó với ruộng đồng, vừa gõ phách cầm ca, chị em cụ Thiệp đã nhiều lần được Ty Văn hóa Hà Bắc (trước đây) mời đi biểu diễn. Riêng cụ Thiệp từng đến làng Bồ Sơn thị xã Bắc Ninh và một số làng ở Từ Sơn truyền dạy ca trù theo lời mời của chính quyền sở tại. Kỷ niệm đáng quý nhất của bộ ba ca trù Thanh Tương là một Huy chương vàng được trao tặng tại Liên hoan hát dân ca do Ty Văn hóa Hà Bắc tổ chức và một Huy chương Bạc tại Liên hoan hát dân ca toàn quốc tại Hà Nội hồi đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Theo những nghệ nhân làng Tướng, nghệ thuật hát ca trù tự thân đã đòi hỏi ở người biểu diễn những tố chất đạt đến độ tinh xảo, điêu luyện về thanh âm, độ luyến láy, nhả chữ. Người hát đồng thời phải biết gõ phách, đi liền theo đó là người đánh trống trò, người chơi đàn đáy. Tất cả phải đạt sự phối hợp nhuần nhuyễn. Người biểu diễn đã vậy, về phần người thưởng thức ca trù cũng đòi hỏi phải đạt đến độ hiểu biết nhất định. Nhiều khi người nghe đồng thời còn gõ phách, đánh trống trò theo nhịp hát. Để thưởng thức trọn vẹn sự tinh tế của nghệ thuật ca trù, thông thường nơi biểu diễn chỉ là một khán phòng nhỏ với không gian trầm ấm thân tình. Sự giao hòa đồng điệu giữa người hát và người thưởng thức sẽ giúp cho mỗi cá nhân xua tan những u uẩn trong lòng, tìm lại được cảm giác thư thái tĩnh tại giữa cuộc đời ồn ã. Nói nghệ thuật ca trù vừa mang đậm bản sắc dân gian vừa hàm chứa yếu tố hàn lâm bác học là như vậy. Nhớ lại lần xuất tướng đầu năm 2002, Nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp và ông Nguyễn Trọng Đức- người chơi đàn đáy còn lại duy nhất ở Thanh Tương, khi ấy được Sở Văn hóa thể thao du lịch Bắc Ninh mời đi tham dự Hội diễn dân ca. Chỉ tiếc rằng ông Đức đã mất, Thanh Tương giờ chẳng còn ai biết chơi đàn đáy nữa. Buồn tênh phách nhịp Thanh Tương hiện đã có một tổ ca trù do chi hội Người cao tuổi thôn đứng ra tổ chức. Song do nhiều yếu tố chi phối mà nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp dạy hát không công mấy năm ròng vẫn chưa tìm được người hát ưng ý. Theo cụ Thiệp, cái khó nhất là chất giọng bởi đặc thù của ca trù là cần chất giọng. Người học nắm được lề lối đã khó, nhưng chất giọng kém cũng không sử dụng được. Thế hệ trẻ Thanh Tương thì đang quay lưng lại với ca trù, mải mê với những trào lưu văn hóa thịnh hành khác. Đã vậy, họ cũng không muốn người thân của mình tiếp tục đàn ca, cho dù chỉ là hát nơi của đình hoặc dịp hội hè đình đám. Chính cách nghĩ này đã khiến cho nghệ thuật ca trù làng Tướng đang dần khép lại. Dân sở tại thì thờ ơ, trong khi không ít người lặn lội từ xa tìm về Thanh Tương để học hát ca trù. Đơn cử như một số thành viên Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội hằng năm vẫn về làng Tướng để sưu tầm, học hỏi, bổ sung thêm vốn ca trù từ các nghệ nhân. Mỗi lần như vậy, cụ Thiệp lại có dịp nhắc lại chuyện xưa, trò chuyện đàm đạo về ca trù và cố gắng truyền dạy những vốn liếng mà bản thân tích lũy, trao truyền bấy lâu. Chỉ tiếc rằng ngày về với tiên tổ đã cận kề mà cụ vẫn chưa tìm được người xứng đáng để chọn mặt gửi vàng. Chia tay chúng tôi, cụ vẫn không quên mở lời nhắn gửi: "Nếu tìm được người đam mê học hát ca trù, nhớ đưa về làng Tướng - chùa Dâu"! Theo Báo Pháp Luật Việt Nam [/TD] [/TR] [/TABLE]