Hiện nay, ngay tại chân núi Pác Tạ vẫn còn dấu tích một ngôi đền. Cũng như bao ngôi đền khác ở làng xã Việt Nam tên đền thường lấy theo tên địa danh, và đền Pác Tạ cũng vậy. Ngôi đền được dựng lên để thờ phụng và ngưỡng vọng vị hôn thê của tướng quân Trần Nhật Duật. “Pác Tạ - nghĩa là cửa sông, cửa ngòi” bởi nơi đây chính là điểm hợp lưu giữa hai dòng sông: sông Gâm và sông Năng. Truyền thuyết kể lại rằng: “Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 vào năm 1285, vị tướng giỏi Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật lúc đó đang trấn thủ vùng đất Tuyên Quang đã đem lòng ái mộ người con gái một viên tù trưởng địa phương. Cô thiếu nữ miền sơn cước tài mạo, xinh đẹp, tính tình hiền thục lại xuất thân trong một gia đình có truyền thống hiếu học. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược Nguyên Mông, triều đình đứng ra tổ chức hôn lễ cho tướng quân với ái nữ xứ Tuyên. Trên đường đón vị hôn thê của tướng quân về kinh đô, gặp cơn lốc xoáy dữ khiến thuyền bị lật. Người vợ trẻ của tướng quân Trần Nhật Duật và cả đoàn tuỳ tùng bị chìm dưới lòng sông. Đã mấy ngày trôi qua mà thân xác bà vẫn chưa tìm thấy. Cảm thương trước tình cảnh đó, triều đình đã ra lệnh cho toàn dân đôi bờ sông tổ chức tìm vớt thi thể bà và trọng thưởng cho ai tìm thấy. Mấy ngày sau, có người trong dòng họ Ma đã vớt được thi thể bà. Để tưởng nhớ người vợ trẻ của Chiêu Văn Vương - Trần Nhật Duật, những người dân địa phương đã lập đền thờ ngay tại nơi bà quy thác. Và từ đó, dòng họ Ma được quyền chăm lo hương khói cửa đền”. [TABLE="width: 320, align: center"] <tbody> [TR] [TD][/TD] [/TR] [TR] [TD]Đền Pác Tạ[/TD] [/TR] </tbody>[/TABLE] Đền Pác Tạ nằm ở địa thế cao, bằng phẳng dưới chân núi Tạ Sơn huyền sử, là điểm hợp lưu giữa sông Gâm và sông Năng tạo nên một cảnh sắc “Sơn thuỷ hữu tình”. Đền được người xưa dựng quay hướng Nam trông ra dòng Gâm giang theo thuyết phong thuỷ “Tiền minh đường hữu hậu chẩm- nghĩa là phía trước có dải đất cao làm bình phong, xung quanh có dòng nước bao bọc, phía sau có ngọn núi Tạ sơn làm hậu chẩm”. Ở thế đất địa linh “Sơn kỳ thuỷ tú” đó là sự kết hợp đồng điệu giữa cảnh sắc thiên nhiên với nhịp sống con người vùng sơn cước. Tất cả toát lên một vẻ đẹp thanh tao thoát tục. Khởi nguyên, đền Pác Tạ nằm trên một doi đất bên hữu ngạn sông Năng phía đối diện với vị trí hiện nay. Đền được dựng với kết cấu 3 gian 2 chái bằng tranh, tre, nứa, lá - vật liệu được khai thác tại địa phương. Nhưng đến một hôm, trời nổi cơn giông lớn, mái đền bị gió cuốn bay qua sông sang dẻo đất cao đối diện, dưới chân núi Pác tạ. Nhân dân địa phương cho rằng đây là ý của “ Đức Thánh Mẫu” nên từ đó ngôi đền được dựng khang trang, bề thế dưới ngọn núi Tạ sơn huyền sử. Tới năm 1959, trong khi đốt nương, do vô ý người dân đã làm cháy toàn bộ ngôi đền, đến nay chỉ còn lại là dấu tích nền xưa. Qua quá trình biến thiên của lịch sử cũng như sự thay đổi của thời gian, đến nay đền Pác Tạ đang trong giai đoạn xây dựng để nhân dân bày tỏ lòng thành kính, niềm khát vọng của mình mong sao nhờ sức mạnh của Đức Thánh Mẫu mà ban cho cuộc sống bình yên, dân khang vật thịnh, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân trải qua bao thế hệ. Đây là một ngôi đền thiêng, mỗi khi du khách qua đây đều ghé lại thắp hương cầu nguyện.