Đền Hùng (Việt Trì, Phú Thọ)

Thảo luận trong 'Di tích và Danh thắng' bắt đầu bởi Hành Thiện, 17/4/12.

Lượt xem: 2,564

  1. Hành Thiện

    Hành Thiện Moderator

    Khu Di tích lịch sử Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; là nơi thờ các vua Hùng có công dựng nước, Tổ Tiên của dân tộc Việt Nam. Ngày xa xưa vùng đất này là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông giống như hai dãy hào thiên nhiên khổng lồ bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng. Phía đông với các dãy núi non trung điệp. Vùng đất này có nhiều sông ngòi ao hồ, đồi núi, lại có những cánh đồng màu mỡ phì nhiêu do phù xa của ba con sông bồi đắp, vừa thuận lợi cho cuộc sống định canh định cư, vừa thuận lợi cho việc phòng thủ hay rút lui khi xảy ra các cuộc xung đột bộ lạc.

    Hiện nay dấu vết cư trú của dân cư thời đại các vua Hùng còn để lại trong hàng chục di chỉ khảo cổ học, được phân bố dày đặc từ huyện Lâm Thao tới ngã ba Bạch Hạc - Việt Trì. Những di chỉ khảo cổ học đo là minh chứng một thời đại, với nghề luyện kim đồng thau và trồng lúa nước của một nền văn minh nông nghiệp, đã từng tồn tại trược công nguyên hàng nghìn năm.

    Đền Hùng là trung tâm, là tiêu điểm về thời đại các vua Hùng, các ngôi đền thờ vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh (còn gọi là núi Cả theo địa phương hay các tên khác: núi Hùng, núi Hy Cương), có độ cao 175 mét so với mặt nước biển. Trước kia khu vực này là cánh rừng già nhiệt đới. Ngày nay núi Hùng vẫn giữ dáng vẻ của rừng tự nhiên với nhiều thế hệ cây tầng khác nhau, gồm 150 loài thảo mộc, thuộc 35 họ, trong đó còn lại một số cây đại thụ lớn như: đa, thông, thiên tuế, trò v.v...

    [​IMG]

    Núi Hùng trông xa giống như đầu của một con rồng lớn hướng về Nam, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo. Phía sau núi Hùng có những quả đồi lớn san sát nối liền dài tới 10km giống như đàn voi chầu về Đất Tổ, phía trước là ngã ba Bạch Hạc với sự hợp lưu của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc: sông Hồng, sông Lô, sông Đà tạo ra một vùng nước lớn mênh mông, từ đó có những quả đồi thấp lô nhô giống như một đàn rùa nước bò lên chầu về Nghĩa Lĩnh. Phía Đông xa mờ là dãy Tam Đảo trùng điệp (núi mẹ), xa về phía nam là dãy Ba Vì cao ngất (núi cha) tụ lại. Sát núi Hùng còn có những quả đồi như phượng cặp (Tiên Kiên), như hổ phục (Khang Phụ - Chu Hoá). Cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ tụ hội. Đứng trên đỉnh cao Nghĩa Lĩnh ta có thể bao quát toàn bộ một vùng rộng lớn với cảnh đẹp của sơn thuỷ hữu tình. Tương truyền vua Hùng đã đi khắp mọi miền, về đây chọn làm đất đóng đô.

    Cổng đền được xây dựng năm 1918 (do bà Phan Thị Thịnh ở Hà Nội cúng tiến xây dựng).
    Từ cổng đền lên đến đền Thượng có 525 bậc thềm (do bà Lê Thị Chại cúng tiến 1.000 đồng Đông Dương xây vào năm 1914), có ba khu vực: Đền Hạ và chùa, Đền Trung, Đền Thượng và lăng Tổ.

    [​IMG]

    Từ đền Thượng xuống chân núi về phía đông nam (khoảng hơn 700 bậc thềm xây năm 1990) là đền Giếng. Theo bản ngọc phả của đền Hùng viết năm Hồng Đức nguyên niên (năm 1470) với tên người viết Hàn Lâm Viện Trực học sĩ Nguyễn Cố Phụng soạn, sau này vào năm 1600 Hoàng Triều Hoằng định nguyên niên, Canh Tý đông thập cát nhật, Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính, sao lại bản ngọc phả viết năm 1470. Trong cuốn ngọc phả sao lại năm 1600, nhắc tới việc xây đền Thượng, đền Trung, chùa và Gác chuông, chưa thấy nói tới lăng, đền Hạ và đền Giếng.

    1. Đền Hạ và chùa.

    * Đền Hạ: Có vào khoảng TK XVII – XVIII, được làm hai lớp theo kiểu chữ nhị. Tương truyền nơi đây, sau khi kết hôn, Lạc Long Quân đã đưa Âu Cơ từ động Lăng Xương (Thanh Thủy), về đến núi Nghĩa Lĩnh, Âu Cơ trở dạ sinh ra một bọc trăm trứng, sau nở thành trăm con trai. Khi các con khôn lớn, Lạc Long Quân bàn với Âu Cơ chia các con đi mở mang xây dựng bờ cõi, 50 người con theo cha đi xuôi về vùng biển, 49 người con theo mẹ lên ngược vùng núi, người con cả ở lại nối ngôi cha, 18 đời đều được gọi là Hùng Vương. Cộng đồng người Việt được hình thành, hai tiếng đồng bào (cùng bọc) vì thế mà có…

    [​IMG]

    * Gác chuông và Thiên Quang Thiền tự (nơi có ánh sáng mặt trời rọi xuống): Xây vào thời kỳ nhà Lê (từ 1427 – 1573), kiến trúc chủ yếu là cột gỗ đá kê và lợp ngói. Trước kia chùa xây theo kiểu chữ công, xung quanh có thành đá ong bao bọc. Nay chùa chỉ còn lại phần tiền tế. Thiên Quang Thiền tự thờ phật theo phái Đại Thừa. Trước chùa có cây thiên tuế khoảng 700 năm. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19-9-1954 khi thăm đền Hùng đã ngồi nghỉ dưới bóng cây này.

    2. Đền Trung (Hùng Vương Tổ miếu).

    Đền Trung xuất hiện sớm nhất trên núi Hùng. Kiến trúc buổi đầu thời nhà Trần (TK XIV). Vào TK XV (thời Lê) bị giặc phía Bắc tàn phá. Dân sở tại sau chiến tranh đã xây dựng một ngôi đền khá lớn, có thớt đá kê cột gỗ, mái ngói. Cách nay khoảng 300 năm, đền Trung được xây dựng lại kiểu chữ nhất, tồn tại đến bây giờ.

    [​IMG]

    Tương truyền nơi đây các vua Hùng thường họp bàn việc nước, hay mỗi khi đi săn qua khu vực này thường đốt lửa nướng thịt chia đều cho mọi người trong cuộc. Vào thời Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh đuổi giặc Ân từ phía Bắc tràn xuống, vua Hùng thứ 6 muốn chọn con kế vị. Người đã cho gọi 18 người con về núi Nghĩa Lĩnh, mở cuộc thi làm cỗ, để tìm người con nào có lòng hiếu mẹ cha, yêu trọng non nước sẽ truyền ngôi cho. Lang Liêu là người con út, thương dân, yêu lao động, hiếu thảo đã sáng tạo ra hai thứ bánh tượng trưng cho trời và đất (đó là bánh dày và bánh chưng) dâng cha. Vua Hùng thứ 6 cho đó là “bánh thì ngon, ý thì hay” nên nhường ngôi cho Lang Liêu nối nghiệp (Hùng Vương thứ 7).

    3. Đền Thượng và lăng.

    * Đền Thượng: (Kính Thiên Lĩnh điện) được xây dựng vào TK XV. Trong dịp đại trùng tu từ năm 1914 – 1922, triều đình phong kiến Việt Nam cử quan về giám sát việc xây dựng lại đền Thượng (năm Khải Định nhị niên – tức Khải Định năm thứ 2). Người đời sau thường truyền lại rằng:
    Thời Hùng Vương, vua Hùng cùng các quan tướng thường đến Nghĩa Lĩnh để tiến hành những nghi thức cúng tế trời đất, mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi để muôn dân được ấm no hạnh phúc. Vì thế mà đền Thượng bây giờ vẫn gọi là “Kính Thiên Lĩnh điện” (tức điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh).

    [​IMG]

    Cạnh đền Thượng còn có một cột đá, xưa truyền khi Thục Phán được vua Hùng nhường ngôi, đã dựng cột đá trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thề nguyện muôn đời bảo vệ giang sơn gấm vóc và đời đời hương khói tại lăng miếu vua Hùng.

    Ngày 19-9-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đền Thượng, xem bài minh chuông ở quả chuông đền Thượng treo trên cây đại thụ trước đền. Ngày 19-8-1962 Bác về thăm đền Hùng lần thứ hai và nghỉ lại tại cửa ngách đông nam của đền Thượng.

    * Lăng Tổ: (Hùng Vương lăng) được xây dựng vào thời gian nào không ai nhớ rõ. Xưa có thể là một khu đất có mái che, tới năm 1874 được xây dựng kiểu dáng như ngày nay.

    [​IMG]

    4. Đền Giếng.

    Kiến trúc có vào khoảng TK XVIII, đền Giếng nằm dưới chân núi Hùng gồm ba lớp nhà và hai nhà oản hai bên. Tương truyền khi theo cha đi kinh lý qua vùng này, hai nàng Tiên Dung – Ngọc Hoa con gái vua Hùng thứ 18 thường đến đây soi gương chải tóc. Hai nàng đã có công cùng chồng khẩn hoang, trị thủy, dạy dân trồng lúa, xây dựng cuộc sống.

    [​IMG]

    Theo truyền thuyết nàng Tiên Dung xinh đẹp đến tuổi trăng tròn có nhiều người tài giỏi đến cầu hôn. Tiên Dung không muốn lấy chồng để được thường xuyên đi du ngoạn núi rừng. Một lần Tiên Dung bơi dọc sông Hồng về xuôi, tới vùng Dạ Trạch (Khoái Châu – Hải Hưng) nghỉ, tắm trên bãi cát, không ngờ gặp Chữ Đồng Tử, chàng trai nghèo khổ hiếu thảo – và đã nên duyên. Nàng theo chồng về vùng Dạ Trạch, cùng chồng khẩn hoang, dạy dân trồng lúa.

    Còn Ngọc Hoa xinh đẹp, vua cha cho dựng lầu kén rễ, hai chàng trai giỏi Sơn Tinh – Thủy Tinh cùng đến cầu hôn, thi tài. Cuối cùng Sơn Tinh thắng cuộc lấy được nàng Ngọc Hoa, hai vợ chồng về vùng núi Tản quê hương của Sơn Tinh cùng dân làng trị thủy, trồng lúa nước xây dựng cuộc sống. Thủy Tinh thua cuộc hàng năm ôm hận, cứ đến mùa tháng 6 tháng 7 (âm lịch), lại dâng lũ đòi người yêu.

    [​IMG]
    Giếng cổ tương truyền là nơi Âu Cơ tắm cho các con sau khi sinh​

    - Tại đền Giếng chiều ngày 18-9-1954 Bác Hồ đã về nghỉ ở đây, hôm say 19-9-1954 Bác đã gặp và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ đại đoàn quân Tiên Phong trước khi về tiếp quản thủ đô với câu nói nổi tiếng: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
     

    Bình Luận Bằng Facebook

  2. Hành Thiện

    Hành Thiện Moderator

    CÂU ĐỐI ĐỀN HÙNG VÀ TÂM THỨC VIỆT NAM

    Nguyễn Khắc Xương

    Câu đối Đền Hùng là cảm nghĩ của nhân dân gửi Đền Hùng mộ Tổ, tấm lòng nhân dân khi được về mảnh đất cội nguồn, được thành kính thắp những nén hương thơm dâng lên tổ tiên xưa: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước”.

    Xét về văn tự, câu đối Đền Hùng có 3 loại, đó là các câu đối soạn bằng Hán tự, câu đối Nôm và câu đối chữ Quốc ngữ ra đời muộn hơn, vào hồi đầu thế kỷ.

    Đề ở Đền Hùng phần nhiều là câu đôi Hán tự, còn đối Nôm và đối chữ Quốc ngữ là viết trên giấy lưu lại hay in trên báo chí hoặc cũng có khi là truyền khẩu mà nhớ.

    Đến cổng đền Hùng, ngước nhìn lên thấy trang nghiêm như tỏa sáng hào quang 4 chữ “Cao sơn cảnh hành”. Đây là câu rút ra từ Kinh Thi: Cao sơn ngưỡng chỉ, cảnh hành hành chỉ, có nghĩa là: “Núi cao ta ngẩng trông, đường rộng lớn ta đi tới”. “Núi cao ta ngẩng trông” là hướng về cội nguồn như núi cao sừng sững bền vững muôn đời. Còn “đường lớn ta đi tới” là chỉ về tương lai rộng lớn của cả dân tộc. Khổng Tử khi biên tập các câu hát và thơ dân gian để làm thành bộ Kinh Thi có khen câu thơ trên: “Người làm thơ yêu thích cái đạo nhân hậu đến như thế”. Khen “nhân” là vì đã nghĩ đến cái gốc, khen “hậu” vì đã nghĩ đến những thế hệ mai sau.

    Hai bên cổng đền là đôi câu đối:

    Thác thủy khải cơ, tứ cố sơn hà qui bản tịch.
    Đăng cao vọng viễn, quần phong la liệt tự nhi tôn.


    (Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông qui một mối;
    Lên cao nhìn khắp, chập chùng đồi núi cháu con đông).​

    Đôi câu đối vừa chỉnh vừa mang ý nghĩa sâu sắc, đề ở cổng nơi thờ Tổ chung cả nước thật thích hợp mà lại chiếu được vào 4 chữ đại tự nói trên.

    Đền Hùng còn có nhiều hoành phi đều nói lên Hùng Vương là tổ nước, nêu cao công đức tổ tiên và tấm lòng uống nước nhớ nguồn như:

    - Triệu cơ vương tích (Dấu tích vua trên nền móng đầu tiên).

    - Nam Việt triệu tổ (Vị Tổ đầu tiên của nước Việt Nam).

    - Hùng Vương linh tích (Dấu thiêng của các vua Hùng).

    - Ẩm hà tư nguyên (Uống nước nhớ nguồn)

    - Tử tôn bảo chi (Con cháu hãy giữ gìn lấy).

    - Nam quốc sơn hà (Non sông nước Nam)

    - Sơn thủy kim ngọc (Non sông vàng ngọc).​

    Các hoành phi trên nói lên tư tưởng và tấm lòng của nhân dân, câu đối Đền Hùng cũng mang những nội dung trên nhưng có đi sâu có phát triển, vì hoành phi là súc tích, chỉ nêu trong 4 chữ cả một vấn đề lớn có tính khái quát cao.

    Về với Đền Hùng mộ Tổ trên ngọn núi Hùng hay Nghĩa Lĩnh, tại xã Hy Cương, huyện Phong Châu, Vĩnh Phú, mỗi khách hàng hành hương không thể không bồi hồi xúc động trước cảnh núi sông hùng vĩ và tươi đẹp. Trước mắt là thành phố Việt Trì, Kinh đô nước Văn Lang, Thủ đô của nước Việt Nam ta với ba con sông lớn nhất miền Bắc là Lô, Thao (tức sông Hồng) và Đà như 3 con rồng uốn khúc quện lấy nhau chầu về núi Hùng. Khu vực Nghĩa Lĩnh này là hậu cung và cũng là nơi lập đàn tế Trời Đất và thực hành những nghi lễ cầu mưa của các vua Hùng.

    Câu đối nói lên tâm tưởng mỗi người trước cảnh tượng hùng tráng “non sông muôn thuở vững âu vàng”:

    Vương đối tác bang, tối hảo trung gian sơn thủy;
    Dân kim thụ tứ, cái tự thượng cổ thánh thần.

    (Vua dựng nước đây, sông núi chốn này tươi đẹp quá;
    Dân nay ơn chịu, thánh thần trao lại tự ngàn xưa).

    Khải mã Nam giao, Hồng Lạc thiên thu tôn đế quốc;
    Hiền vu Tây thổ, Tản Lô nhất đái thọ tân từ

    (Cõi mở Nam Giao, Hồng Lạc nghìn thu tôn nước tổ.
    Đất tây rộng mở, Tản Lô một dải vững đền Vua).​

    Quá cố quốc, miến Lô, Thao, y nhiên bích lãng hồng đào, khâm đái song lưu hồi Bạch Hạc.
    Đăng tư đình, bái lăng tẩm, do thị thần kinh xích huyện, sơn hà tự cổ khống Chu Diên.

    (Qua nước cũ ngắm Lô Thao, vẫn hồng đào bích lãng như xưa, sông hai dải bao quanh chầu Bạch Hạc;
    Lên đền này vái lăng tẩm, kìa xích huyện thần kinh còn đó, núi bốn bề quay lại giữ Chu Diên).

    Các câu đối bắt nguồn từ cảm hứng núi sông đều mang ý Tổ quốc trường tồn, giang sơn vững mạnh, từ đó lại đưa tới nội dung ca tụng, khẳng định công đức các vua Hùng dựng nước.

    Lịch Tam hoàng chí Tam vương, thần truyền thánh kế.
    Đĩnh bách nam khai Bách Việt, tổ thiện tôn bồi.

    (Trải qua ba đời đến ba đời vương, thánh thần truyền dõi.
    Sinh trăm trai nở trăm giống Việt, tổ tiên xây đắp, con cháu vui bồi).

    Thánh thần sự nghiệp Thiên Nam thủy;
    Hoàng đế cơ đồ Cổ Tích sơn.

    (Sự nghiệp bậc thánh thần khởi đầu ở cõi trời Nam;
    Cơ đồ đấng hoàng đế gây dựng từ núi Cổ Tích).

    Hồng Lạc cố cung tồn, diệp chướng tầng loan quần thủy hợp.
    Đế vương linh khí tại, hào phong nộ vũ nhất phong cao.

    (Cung cũ Hồng Lạc còn đây, trùng điệp núi đồng nhiều sông họp lại;
    Khí thiêng đế vương vẫn đó, thét gào mưa gió một ngọn núi đứng cao).

    Duật duật hoàng hoàng phối thiên kỳ trạch đế nhi tổ;
    Thông thông uất uất, đắc địa chi linh sơn diệc hùng.

    (Đẹp đẹp tươi tươi, sánh ơn lớn của trời, vua còn là tổ;
    Xanh xanh tốt tốt, được khí thiêng của đất, núi cũng rất hùng).

    Duy tổ quốc tinh thần, nhất thập bát truyền căn bản địa;
    Khảo cổ dư đồ danh thắng, kỷ thiên cổ tải đế vương lăng.

    (Vì tinh thần Tổ quốc, qua mười tám đời truyền, đất này là căn bản;
    Khảo danh thắng nước nhà sau mấy nghìn năm lẻ, nơi đây còn lăng vua).​

    Các câu đối đã nói lên sự trường tồn thế nước, truyền mãi và vững mạnh muôn đời:

    Thập bát thế truyền trường quốc tộ;
    Ức niên hương hỏa điện kim âu

    (Mười tám đời truyền dài thế nước;
    Ngàn năm hương hỏa vững âu vàng).

    Kiến quốc lịch thiên niên, phụ đạo tương thừa công đức hậu;<
    Hùng đồ thập bát thế, sơn hà tăng mị thái bình dân.

    (Dựng nước trải ngàn năm, trị nước hưởng thừa công đức hậu;
    Dòng Hùng mười tám đời, non sông thêm tươi đẹp, dân hưởng thái bình).​

    Tư tưởng non sông “riêng một cõi trời”, đứng vững một cõi trời Nam, tư tưởng “Nam quốc sơn hà” và “các đế nhất phương” là một tư tưởng hạt nhân của tinh thần dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta, giúp cho nhân dân ta giữ vững chủ quyền dân tộc, bảo vệ giang sơn bờ cõi chống lại bất kỳ mưu đồ thôn tính nào. Tư tưởng “Nam quốc sơn hà” và “Các đế nhất phương” cũng là nội dung của nhiều câu đối Đền Hùng:

    Thử địa thử sơn Nam quốc kỷ;
    Ngô vương ngô thổ Bắc thần tôn.

    (Đất này núi này là của nước Nam;
    Vua ta đất ta làm phương Bắc cũng nể vì).

    Thiên thư định phận, chính thống triệu minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ;
    Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành túy miếu, tam giang khâm đái thượng triều tôn.

    (Sách trời đã định, chính thống dựng kinh đô, Bách Việt non sông theo tổ trước;
    Núi sáng khí thiêng, cố cung thành đền miếu, ba sông quanh quất hướng chầu vua).

    Tây hanh vu sơn, Tản Đảo Lô Thao, hội tác nhất thiên vũ trụ;
    Nam tố kỳ địa, Đinh, Lý, Trần, Lê trường lưu ức triệu dư đồ.

    (Phía tây thông núi ấy, Tản Đảo, Lô, Thao hợp thành bầu vũ trụ;
    Phương Nam mở đất này, Đinh, Lý, Trần, Lê ngàn thuở vững dư đồ).​

    Tư tưởng “uống nước nhớ nguồn”, về với cội nguồn là tư tưởng quán xuyến trong các câu đối, dù nói về công đức Vua Hùng dựng nước hay nói lên tư tưởng “các đế nhất phương”. Tư tưởng “uống nước nhớ nguồn” cũng là một truyền thống trở thành sức mạnh, một nội lực của tâm thức Việt Nam:

    Thái hòa tại vũ sổ thiên tải;
    Công liệt ư dân thập bát truyền.

    (Mấy nghìn năm trước xây nền vững;
    Mười tám đời truyền dân đội ơn sâu).

    Thông thông uất, trung hữu lăng yên tẩm yên, long phụ tiên mẫu chi tính linh, hựu ngã hậu nhân võng khuyết;
    Cổ cổ kim kim, thử sơn dã thủy dã, thánh tổ thần tông chi sáng tạo, y hi tiền vương.

    (Trong cây cỏ tốt xanh vẫn có miếu lăng, hồn thiêng cha mẹ rồng tiên phù hộ đời sau không thiếu sót;
    Suốt cổ kim dài dặc, thấy kìa sông kìa núi, công đức tổ tiên thần thánh, nhớ ơn vua trước chẳng hề quên).

    Thần thánh khải viêm bang chí kim, địa bất cải tịch, dân bất cải tụ.
    Huân lao phụng thánh miếu thị vi, mộc chi hữu bản, thủy chi hữu nguyên.

    (Thần thánh mở cơ đồ đến nay, đất vẫn thế, dân vẫn thế;
    Công huân thờ thánh miếu từ, cây có gốc nước có nguồn).​

    Cảm xúc câu đối Đền Hùng là cảm xúc trang nghiêm hướng về những điều thiêng liêng với mỗi người dân Việt; ý thức về cội nguồn, về sự trường tồn vững mạnh của đất nước và tư tưởng uống nước nhớ nguồn. Phải chăng câu đối Đền Hùng là biểu hiện của tâm thức Việt Nam ánh lên trên từng nét chữ?

    Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương năm Bính Tí (1996)

    Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 2 – 1996.
     

Chia sẻ trang này