Phía bờ hữu sông Lô, bến Tam Cờ (thị xã Tuyên Quang) có một ngôi đền cổ, nhân dân quen gọi là đền Hạ. Trên tháp điện có dòng chữ Hán: Hiệp Thuận linh từ (tức đền Hiệp Thuận) Theo sách Đại Nam nhất thống chí và Thần tích đền Ỷ La cho hay, xưa có hai nàng công chúa con vua Hùng là Phương Dung và Ngọc Lân một hôm theo xa giá đến bên bờ sông Lô thuộc thôn Hiệp Thuận đỗ thuyền. Nửa đêm, trời mưa to gió lớn, hai nàng đều hoá. Nhân dân trong vùng lấy làm linh nghiệm lập đền thờ. Đến thế kỷ XVIII vào triều vua Cảnh Hưng, ngày 29 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1738), đền được xây dựng chính thức và qui mô hơn. Sau đó, nhân dân lại xây thêm một ngôi đền nữa về phía thượng nguồn bên bờ tả sông Lô thuộc chân núi Giùm, đặt tên là đền Thượng (Thượng tự linh từ), để trấn giữ thuỷ tai. Đền Hiệp Thuận ở phía hạ lưu được gọi là đền Hạ. Đền Hạ thờ công chúa Phương Dung (người chị), đền Thượng thờ công chúa Ngọc Lân (người em). Truyền thuyết cho rằng hai ngôi đền có nhiều linh ứng, nên hai nàng được tôn làm thánh Mẫu. Thời trước, nghe tin có một đảng loạn lớn tràn vào tỉnh lỵ, dân chúng đã sơ tán các tượng thờ vào thôn Gốc Đa, xã Ỷ La ngày nay. Họ vừa kịp giấu pho tượng vào rừng cây thì quân giặc tới. Sáng hôm sau thay vào chỗ bức tượng là một đống mối đùn to như một gian nhà. Mọi người cho là điềm báo ứng, giặc tan họ cùng nhau gom tiền của xây ngôi đền ngay trên mảnh đất đó. Từ đấy lại thêm nơi bái vọng mới gọi là đền Thần Ỷ La thờ hai nàng công chúa. Như vậy, đền Thần Ỷ La và đền Thượng đều bắt nguồn từ đền Hạ. Tục rước Mẫu hình thành ở xứ Tuyên từ lâu đời. Hằng năm, xuân thu nhị kỳ vào trung tuần tháng 2 và tháng 7 (âm lịch), lễ rước bắt đầu từ đền Ỷ La ra đền Hạ, rồi từ đền Thượng về đền Hạ. Đây là lễ hội lớn từ xưa đến thời gian kháng chiến chống Pháp mới chấm dứt. Trong các di sản còn lại hiện nay, đền Hạ vẫn còn giữ được 1 chuông và 1 khánh cổ rất lớn thời Lê. Nhưng đáng chú ý là 20 bản sắc phong từ triều Lê đến triều Nguyễn phong tặng cho đền Thượng và đền Hạ với những mỹ tự cao quý nhất dành cho hai công chúa Phương Dung với Ngọc Lân. Chẳng hạn, sắc phong của vua Cảnh hưng năm thứ tư (1744) cho đền Thượng như sau: “Sắc ban cho Đệ Nhị Lân Ngọc Nữ Thủy Tinh Công Chúa. Phẩm hạnh của nàng quý như ngọc Quỳnh Dao, phong tư thơm ngát như hoa lan hoa huệ, thuần vững vàng chân chính lớn lao mẫu mực; gương sáng băng hồ tốt đẹp; ngầm giúp vận lớn như đuốc ngọc âu vàng hiển linh, tỏ rõ linh ứng thần công. Theo nghi thức nâng cao điển lễ. Nhân dịp vua mới lên ngôi, trông coi chính phủ, có lễ đăng trật, thuận ý gia phong thêm 3 mỹ tự là: Đệ Nhị Lân Ngọc Nữ Thuỷ Tinh Đoan Trang Thuận Chính Trinh Thục Công Chúa". Hay sắc phong của vua Thành Thái năm thứ hai (1890) cho đền Hạ: “Sắc ban cho vị Tôn Thần “Hiệp Thuận Phu Nhân, xưa đã phong tặng là: “Trinh Ý Minh Khiết, Tĩnh Quyên Nhàn Uyển Dực Bảo Trung Hưng”, giúp nước trợ dân, thường thấy rõ linh ứng, từ triều vua Tự Đức, các quan Bộ Lễ đã dâng biểu lên. Nay thuận theo nghiệp lớn, nhớ tới ơn sâu của thần giúp đỡ từ trước nên phong thêm là: “Tề Thục Trung Đẳng Thần”, cho phép xã Ỷ La, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang được phụng thờ như cũ. Thần sẽ giúp đỡ và chở che cho muôn dân của ta”. (Trần Mạnh Tiến dịch) Nội dung các sắc phong vừa mang dấu ấn lịch sử vừa mang tính chất văn chương, đều ca ngợi phẩm chất cao quí và sức mạnh linh thiêng của các nương thần phù trợ cho dân nước. Văn bia và sử sách còn ghi rõ: Trong cuộc đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Nùng Văn Vân, Tổng đốc Lê Văn Đức đã làm lễ cầu đảo ở đền Thượng và đền Hạ. Dẹp loạn xong, nhà vua ban cấp sắc phong cho hai ngôi đền và dùng các mỹ tự cao quí nhất phong tặng cho các nương thần. Trong nạn đói năm 1945, đền Hạ là nơi cứu tế cho những người khất thực. Thời kỳ cách mạng mới thành công, đền Hạ là nơi thực hiện Tuần lễ vàng. Đầu kháng chiến chống Pháp, đây là nơi cất giấu vũ khí cho bộ đội. Năm 1947, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến đền Hạ gặp gỡ và động viên các chiến sĩ tham gia chiến dịch Việt Bắc -Thu đông 1947 trên Mặt trận sông Lô… Ngày 30 tháng 8 năm 1991, đền Hạ được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Từ bấy đến nay, đền Hạ cùng với đền Thượng, đền Ỷ La, ngày càng được tu bổ khang trang đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh của nhân dân. Ba ngôi đền này là những di tích lịch sử và văn hoá quý báu. Trong đó, phải kể đến những thần phả, sắc phong, đặc biệt là bài từ đền Hạ, nguyên văn chữ Hán như sau: Lô giang tại kỳ tiền La Sơn tại kỳ hậu Nguy nga thiên cổ miếu Quốc tộ tại dân tâm. Dịch là: Phía trước là dòng sông Lô Phía sau là dãy núi Là tôn nghiêm Ngàn năm sừng sững ngôi đền Lòng dân ôm mãi nước non trong mình. Bài từ ca ngợi vẻ đẹp hài hoà sơn thuỷ, bền vững linh thiêng của ngôi đền Hạ, qua đó nói lên tầm vóc lớn lao của nhân dân với vận nước và lịch sử Nguồn tin: Báo Tuyên Quang