Khán giả xem truyền hình nước ta hẳn không xa lạ với nhân vật Tôn Ngộ Không trong tiểu thuyết Tây Du ký của tác giả La Quán Trung đã được dựng thành bộ phim cùng tên. Nhưng không mấy ai biết, vị "Thánh" chỉ có trong tiểu thuyết lại được "Việt hóa" trở thành vị Thành hoàng làng với những câu chuyện truyền đời, ly kỳ… Mục đồng nặn đất lên "Ngài đại náo thiên cung"? Nằm cách TP Nam Định khoảng 11 km về hướng Nam, thôn Thi Châu, xã Nam Dương, huyện Nam Trực hay còn gọi là làng Đế, dựa lưng vào ven đê sông Đào, quay mặt ra quốc lộ 55. Nơi đây có ngôi đền cổ, tương truyền có tuổi đời trên 300 năm, được người làng dựng lên thờ vị "Thánh" bước ra từ tiểu thuyết, Tôn Ngộ Không. Giai thoại kể rằng, ngày ấy, ở vị trí ngôi đền thờ "Thánh" Tôn Ngộ Không, nằm phía Đông Bắc làng (như bây giờ) chỉ là cánh đồng rộng, giữa đồng có chiếc giếng nhỏ, nước xanh bốn mùa, bên cạnh là con đường mòn nhỏ dẫn lên ven đê sông Đào. Những trẻ chăn trâu (mục đồng - PV) hay đùa nghịch, có lần chúng nặn tượng Tôn Ngộ Không, thích thú ngắm nghía, rồi đặt tượng "Ngài" bên chiếc giếng để ngày ngày ra đó vui đùa. Ở làng bên kia sông có ông lão làm nghề đan quạt nan, vẫn thường sang làng Thi Châu (làng Đế bây giờ) bán quạt. Mỗi lần đi chợ, ông lão thường đi theo con đường mòn qua cánh đồng vào làng, một hôm ế hàng, ngồi nghỉ bên chiếc giếng, nhìn tượng "Ngài Tôn" uy nghi đứng đó, ông lão khấn vái, xin với "Ngài" cho con bán hết số quạt nội trong ngày, con sẽ lập đền thờ "Ngài". Như có sự linh nghiệm, buổi chợ hôm đó, ông lão bán hết quạt từ rất sớm, và nhớ lời hứa, ông lão đã rước tượng "Ngài" về bên sông lập đền thờ phụng. Sau khi ông lão rước tượng "Ngài" đi thì cả làng Thi Châu đột nhiên xảy ra nạn dịch đau mắt cả tháng trời mà không cách nào chữa khỏi. Bô lão trong làng mới nghĩ chắc sự "động" chi đây. Một số cụ tin vào lời đồn câu chuyện bức tượng đất "Tôn Ngộ Không" linh nghiệm trước lời khẩn cầu của ông lão bán quạt bên sông, nên khi ông lão ấy rước tượng về bên sông thờ thì làng "bị động". Vì thế phải cáo lỗi với "Ngài", các cụ cho tập trung dân làng đến chiếc giếng cổ nơi tượng "Ngài" vẫn ngự, khấn vái thì sau đó dân làng dần hết bệnh. Thấy sự linh nghiệm, cho là phép màu nên làng dựng đền thờ, tạc tượng "Thánh" bằng đá, bốn mùa khói hương thờ phụng để mong cầu sự bình yên, no ấm. Bức Đại tự: “Bảo Thạch Quang Phù" trước đền thờ "Tề thiên đại thánh" Tôn Ngộ Không. "Ma thi tài với Thánh" Cụ Vũ Đình Bàng, 85 tuổi, với hơn 40 năm làm trưởng ban kiến thiết đền, kể rằng: Đền còn có tên gọi khác là đền Đồng, do vị trí nằm giữa cánh đồng làng. Khi cụ còn nhỏ đã thấy có đền, hai cây gạo đã to như bây giờ. Theo đó, các tiền nhân truyền lại rằng: "Đức Thánh Tề, tức Tề thiên đại thánh Tôn Ngộ Không rất linh thiêng, những ngày tế lễ phạm người nào có hành vi ngỗ nghịch, xúc phạm tới ngôi đền là "Ngài" bắt ôm chặt lấy cây cột gỗ mà không thể nào dứt ra, chỉ khi lễ "Thánh" xin "Ngài" tha cho mới bỏ tay ra được". Sự linh thiêng của đền Đồng vẫn được người làng biết đến qua câu chuyện "Ma thi tài với Thánh" để rồi khi tâm phục, khẩu phục, "ma" quỳ lạy "Thánh" như tế sao. Cụ Cao Văn Lý, người xã bên, dù đã ở tuổi 85, giọng vẫn khỏe khoắn kể lại câu chuyện "Thánh Tề" ra tay cứu giúp gia đình mình: Khoảng chục năm trước, gia đình cụ có 3 người con trai đang khỏe mạnh, bỗng dưng lần lượt phát bệnh. Các con cụ cứ suốt ngày nói năng lảm nhảm, thậm chí hành hung cả người thân. Có người mách tiếng về ngôi đền linh thiêng ở thôn Thi Châu, nên gia đình đã tìm xuống cầu "Thánh" soi đường chỉ lối. "Trong không khí u tịch, khói hương mờ ảo. "Thánh Tề" nghiêm nét mặt phán truyền phải buông tha cho gia chủ, nhưng "yêu tà" không phục, còn buông lời thách thức. Chúng liên tục khoe khoang rằng mình ăn được thủy tinh, uống dầu sôi, bay nhảy như không. Thế nhưng, bọn "yêu tà" nói mà không dám làm, còn với "Thánh Tề", nuốt hương đang cháy, ăn thủy tinh, uống dầu sôi, khi ngồi, khi bay vèo vèo trong đền, thậm chí để cho "yêu nghiệt" tâm phục, khẩu phục, "Thánh" truyền người nhà gia chủ đưa bếp lò tới, đem lưỡi cày nung đỏ rực, sau đó "Thánh" xỏ nguyên chiếc lưỡi cày vào chân đi lại như không hề hấn (Thánh nhập vào thanh đồng). Đến khi đó, "yêu tà" sợ khiếp vía, quỳ mọp vái lạy "Thánh", ngoan ngoãn khai danh tính, rồi tuân lệnh "Thánh" dạy, nhanh chóng buông tha cho gia chủ. Thật như có phép lạ, ngay trong đêm đó, các con của tôi tỉnh táo, khỏe khoắn như xưa - cụ Lý nói. Trò chuyện thêm với người dân địa phương về ngôi đền, chúng tôi còn được biết, trước đền có 2 cây gạo cổ thụ, theo các cụ thì đó là một cây đực, và một cây cái. Làng gọi cây đực vì có chiếc bìu gần gốc, còn cây cái có vết khuyết lõm kéo dài, mà rất trùng hợp, phần thân gần dưới gốc hai cây đều cong hướng vào nhau. Đến nay, trải qua thời gian mấy trăm năm, cây gạo cái bị cỗi, nhà đền buộc phải hạ bỏ. Giải mã bí ẩn đền thiêng Thạc sĩ, giảng viên ĐH ngành Hán Nôm Phạm Văn Thiện, người thôn Chiền, xã Nam Dương, gần ngôi làng thờ "Tôn Ngộ Không", đã cùng Nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang (Tác giả cuốn Thần Tích Việt Nam, xuất bản năm 1995) nghiên cứu hầu hết các đình, chùa, di tích lịch sử ở các xã trong huyện Nam Trực. Ông Thiện cho biết: Khi nghiên cứu về đền Đồng thờ "Thánh Tề" ở làng Đế, chúng tôi chưa tìm được thần tích, các câu đối rất ít đề cập đến lịch sử ngôi đền. Tuy nhiên, bức Đại tự trước cửa đền ghi 4 chữ "Bảo Thạch Quang Phù" có nghĩa là hòn đá báu sáng nổi, và câu đối: "Thánh tượng tích lưu phù ngọc tỉnh/ Linh từ trùng sáng trấn hà ba" có nghĩa: "Thánh tượng nổi lên nơi giếng ngọc, đền thiêng thờ thánh chặn sóng sông" cũng phần nào lý giải được về ngôi đền. Theo ông Thiện, đền thờ Tôn Ngộ Không có thể do sự quá tôn sùng nhân vật này đã ăn sâu vào tiềm thức dân gian, cho nên người xưa đã "Việt hóa" nhân vật này, trở thành Thành hoàng của làng Thi Châu. Theo ý nghĩa của 4 chữ trên Đại tự thì vị trí đền thờ như ngày nay, xưa kia là cánh đồng mênh mông, giữa đồng có một cái giếng nhỏ, nước trong xanh. Dưới giếng nổi lên môt hòn đá quý, phát sáng. Cho là sự lạ, dân làng mới lập đền thờ hòn đá. Đặt tên đền là "Bảo Thạch Quang Phù", tục gọi là đền Đồng vì đền nằm giữa cánh đồng, thờ hòn đá quý - tinh anh trời đất hội tụ. Ban đầu, đền có diện tích nhỏ, sau này theo thời gian, nhân dân địa phương xây dựng, tu tạo nên hiện tại ngôi đền có cấu trúc: 1 gian hậu cung, 3 gian trung đường bằng gỗ và 5 gian tiền đường (mới được dựng lên khoảng vài chục năm). "Có thể người xưa nghĩ rằng Tề Thiên Đại Thánh nghĩa là ông Thánh to ngang với Trời, không có ông Thánh nào to hơn thế nữa, Ngài trừ tà sát quỷ cho nên đã dùng hòn đá quý này tạc pho tượng Tôn Ngộ Không để thờ, mong cầu sự bình yên. Và nghiễm nhiên Tôn Ngộ Không từ nhân vật trong tiểu thuyết của tác giả người Trung Quốc lại được dân gian "Việt hóa" trở thành Thành hoàng làng nơi đây" - ông Thiện nói. Còn theo ông Phạm Văn Thuyên, Trưởng ban Khánh tiết đền Đồng cho biết: "Hàng năm, cứ vào ngày 19- 5 âm lịch, dân làng Thi Châu hồ hởi tổ chức lễ hội truyền thống đền Đồng để tỏ lòng thành kính trước đất trời, thần linh, cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng sung túc, cuộc sống bình yên. Người làng Thi Châu rất phấn khởi, vì tìm được đạo sắc phong của Vua Cảnh Thịnh (Tức Nguyễn Quang Toản, con thứ 10 của Vua Quang Trung, lên ngôi năm 1792) tặng cho "Thánh Tề" đền Đồng vào năm 1794". Nguồn Pháp luật & Xã hội