Chùa Du Lễ xã Kiến Quốc ( huyện Kiến Thụy) nằm ven sông Văn Úc. Du khách viếng thăm Du Lễ, từ xa đã có thể thấy lầu chuông ba tầng của chùa sừng sững vươn lên không gian. Theo con đường đất nhỏ len lỏi giữa biển lúa xanh mênh mông bao quanh đến trước cửa chùa. Chính giữa tam quan đắp nổi hàng chữ Hán lớn “ Trúc Am Tự”…(tức chùa Trúc Am – tên tự của chùa Du Lễ). Vượt cửa tam quan, bước vào sân chùa thấy một bầu không khí êm ả, lâng lâng. [TABLE="width: 200, align: center"] <tbody>[TR] [TD] [/TD] [/TR] [TR] [TD]Tam quan và gác chuông chùa Du Lễ[/TD] [/TR] </tbody>[/TABLE] Ngôi chùa có qui mô vừa phải, giản dị khiêm nhường nép dưới bóng cây sum suê mái lợp ngói “ vẩy rồng” đã rêu phong đượm vẻ cổ kính. Kiến trúc chùa theo kiểu chữ “ đinh” đơn giản một “ mô típ” thường gặp trong kiến trúc cổ của ta. Các vì kèo, lá gió, bẩy kẻ chạm khắc họa tiết mang phong cách của thế kỷ trước. Trong chùa, tại bệ thờ lớn của ba gian “ thượng điện”, một hệ thống tượng Phật khá hoàn chỉnh, sơn son thiếp vàng đẹp đẽ, được xếp đặt rất trang nghiêm. Ở đây chúng ta lưu ý về bộ tượng “ Tam thế” và pho “ Quan âm thiên thủ, thiên nhỡn” được đặt ở nơi cao nhất của thượng điện. Đó là các pho tượng nói lên sự có mặt đã lâu đời của chùa Du Lễ chứ không chỉ dừng ở ranh giới 1 – 2 thế kỷ nay. Bộ tượng tam thế gồm có 3 pho, được chế bằng gỗ mít. Cả 3 pho đều trong tư thế ngồi thiền định. Tượng to bằng người thật, cao 0,8m, giãn cách giữa hai đầu gối 0,6m. Tóc cụm nhỏ “ xoắn ốc”. Một vòng tròn nổi phía trên đỉnh đầu tượng trưng cho một “ tướng” cao quý của nhà Phật ( Có dịp đến chùa Trà Phương hay các chùa nào đó ở quanh vùng hoặc ở các địa phương khác, chúng ta đều có thể thấy được các “ mô típ”này trên các tượng Phật). Gương mặt tượng bầu bĩnh, mũi thẳng, mi cong, tai to gần chấm vai, toát lên vẻ hiền từ, khoan dung nhưng cũng thật đăm chiêu, tư lự. Áo cà sa nhiều nếp phủ qua vai và bắp tay rồi chảy xuống mặt đài sen phía dưới. Đài sen, nơi đỡ tượng Phật có 5 lớp cánh, 3 lớp trên ngửa, 2 lớp dưới úp, các cánh sen múp đều, đồ nhô hẳn ra, cánh sen để trên, không hề trang trí. Pho tượng “ Quan âm nhiều tay” cũng được thể hiện bằng người thật, cao 0,85m, gồm 9 đôi tay, tượng trong tư thế ngồi khoanh chân, đặt trên bệ gỗ. Đầu tượng đội mũ, đỉnh được tạo bởi hai cánh sen lớn song song, ở giữa là búi tóc tròn. Trên vành mũ nổi lên 3 đóa hoa cúc lớn. Bông cúc vốn là biểu tượng mặt trời trong tư duy cổ và trong thế giới nhà Phật, hàm ý cho sức mạnh vô biên và sự từ tâm như ánh sáng của Phật pháp. Tượng có khuôn mặt nữ hiền dịu, đôi mắt nhìn xuống,miệng nghiêm, mũi dọc dừa thanh tú. Các pho tượng vừa khảo tả ở trên, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 16, hay nói một cách cụ thể hơn: cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17 xét trong bối cảnh rộng lớn, chùa Du Lễ nằm trên cùng một bình tuyến với chùa Trà Phương, chùa Nhân Trai, chùa Mõ ( Ngũ Phúc), chùa Lạng Côn. Tất cả các chùa đều thuộc địa bàn đất Dương Kinh, đế đô của vua chúa Mạc thời xưa và cũng ở các di tích nói trên, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những dấu vết của quá khứ. Do vậy, việc tồn tại những pho tượng cổ ở Du Lễ là đều dễ hiểu. Nhưng chùa, tượng Du Lễ ra đời như thế nào? Chúng ta chú ý đến một tấm bia đá hiện đặt ở góc trái nhà tiền đường của chùa, có niên hiệu Đoan Thái. Văn bia có đoạn “…Hoàng Thái hậu họ Vũ ký thí cúng gỗ lim làm hai tòa thượng điện – Hoàng Thái hậu họ Bùi cúng tiến làm thềm…”. Một đoạn khác… “ Thang Xuyên bá Phạm Dục, An Đà bá Đào Chẩm đóng xuất nhân lực để làm tượng”. Phần cuối tấm bia ghi rõ tên, chức tước của một số người có tâm đức ủng hộ việc tự dựng chùa Trúc Am, trong đó có con gái quận chúa Mạc Ngọc Thủy, Cẩm xuyên bá Phạm Tất Dụng, Bái xuyên bá Phạm Dục Trung, An Đà bá Đào Chẩm…Đoan Thái là niên hiệu của năm Bính Tuất 1586 – 1587 đời vua Mạc Mậu Hợp ( đời vua Mạc Mậu Hợp tồn tại 30 năm với 6 niên hiệu). Như vậy, vào các năm nói trên, việc xây dựng chùa và tạo chế các pho tượng đã được tiến hành với sự đóng góp của một số người thuộc giới quý tộc nhà Mạc và các nhà giàu hay có thế lực trong vùng. Tấm bia đá ở chùa Du Lễ thật quý giá. Đó là một bản thuyết minh cụ thể cho sự tôn tạo chùa và tạc chế các pho tượng, một tư liệu quý có giá trị giúp đỡ đắc lực các nhà khảo cổ xác định niên đại tuyệt đối cho di tích. Du Lễ là một hiện tượng hiếm có trong các di tích cổ của ta ở Hải Phòng xét về mặt trọn vẹn giữa di vật và lược sử di vật đó. Tiếp theo sự phát triển di tích nhà Mạc ở chùa Trà Phương, chùa Lạng Côn, đình chùa Nhân Trai, xã Ngũ Đoan, chùa Nghi Dương ( chùa Mõ) ở huyện Kiến Thụy, chùa Trúc ở huyện Thủy Nguyên…việc tìm thấy các pho tượng và các bia đá cổ ở chùa Du Lễ là một phát hiện mới có giá trị. Nó đóng góp, bổ sung vào kho tư liệu các di tích nhà Mạc mà chúng ta đã và đang tiếp tục làm đầy thêm. Trên cơ sở đó, đánh giá lại vai trò của nhà Mạc trên nhiều lĩnh vực trong thế kỷ 16 một cách khách quan, đúng với thực tế, trả lại những giá trị đích thực cho một vương triều từng “… Một thời vang bóng…” Tác giả:TrầnPhương Nguồn: Du lịch Văn hóa Hải Phòng