Cát Thiên Tam Thế Thực Lục

Thảo luận trong 'Bài viết nghiên cứu Đạo Mẫu' bắt đầu bởi kuangtuan, 12/6/11.

Lượt xem: 3,415

  1. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    Giữa mùa xuân năm Quý Sửu triều vua Duy Tân (1913), xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định
    Quảng Cung tiên chúa linh từ tàng bản
    (Trích phiên dịch)

    1. Phần I
    Phả ghi đền thiêng Quảng Nạp
    Kỳ trung hoán, tháng cuối hạ (tháng 6), năm Nhâm Tý (1912), ta cùng với bách thần giá lâm đền thiêng thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, đến Đông La tiền Đình nguyên trưởng tử Đỗ Huy… cùng mộc ân đệ tử Đồng Giang Trần Đăng Thái phụng thờ đền thiêng, dâng xem Ngọc phả thánh mẫu, thì phả ấy vốn do Thánh mẫu thủ bút, phụ đồng vào người trong xã là Đoàn Tử Duyệt giáng bút rõ ràng. Tôi thấy lạ lùng, đây đích thực là chuyện tiền thân của Thánh mẫu Vân Cát. Trông lại, Thánh mẫu là con gái thứ hai của Thượng đế giáng sinh xuống trần thế, sau khi mất, linh thiêng rõ rệt, nhưng tại sao chỉ có đền Vân Cát nổi tiếng linh thiêng mà tại sao đền Quảng Nạp lại vắng vẻ, không được nghe nói đến. Thời lấy việc Thánh mẫu hiển hoá đổi thay, trong khoảng thời gian trước sau chừng nghìn năm không được nêu lên mà tỏ rõ, mới không theo vào đâu mà biết được. Cho nên những điều truyền lại chỉ là những ghi chép tản mạn mà thôi. Thật kỳ lạ biết bao! Than ôi! thuyết lý luân hồi thực là có vậy. Xưa nay, có được diệu quyết mà thành tiên, thoát thai phàm mà thành thánh. Nhưng sinh với hoá không thể tự giải nghĩa được giống như ngủ với thức cũng không tự giải nghĩa được. Lại không có tạo hoá trong một ảo cảnh lớn hay sao? Duy có thánh triết tri giác, độc toàn tu luyện mới có thể đến được. Cho nên sống thì tài giỏi tinh anh, hoá thì linh thiêng huyền diệu, trước sau không thay đổi, mới tin rằng cái lý thuyết bất sinh bất diệt chẳng phải là hư không. Tôi đã ba lần xem đi xem lại ngọc phả, nhân đó hỏi xem, đối chiếu với bản Quế cung thần lục thì đền Quảng Nạp chính là nơi diễn ra chuyện tiền thân của mẫu, còn Sòng Sơn, Vân Cát là nơi hậu thân của mẫu. Ba kiếp luân hồi, nghìn thu hiển hách, trước sau thửa một đạo vậy, liền nhuận sắc thêm Ngọc phả quốc âm, cho khắc lên gỗ lê, gỗ táo. Những người nương nhờ dưới ánh sáng nên biết rõ đầu cuối vậy, rồi giáng bút ghi chép ở vũ đình đền Quảng Nạp.
    Ngày 11 tháng 6 năm Nhâm Tý, niên hiệu Duy Tân 6 (1912), Trần triều Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương giáng bút rõ thêm, lại tặng thơ để ghi lại.
    Nghìn thu dấu trần chưa mòn hết
    Máu đỏ, vết rêu gửi cỏ hoa
    Vỉ Nhuế vốn chẳng phải là nơi đế nữ đến(1).
    Quảng hàn ngờ là nơi giáng tiên nga(2).
    Gió lành đưa tiếng đàn trầm bổng
    Trăng sáng in tròn trên giếng ngọc(3).
    Mới biết tiền thân linh cảm lạ.
    Từ nguyên gieo vần thơ ca ngợi(4)
    Cốt cách người tiên chốn Quảng cung
    Nga Anh bến Vỉ sánh âu cùng(5)
    Lòng son thấu đến ba tầng biếc(6)
    Đá trắng còn in mấy giọt hồng(7)
    Chữ hiếu sáng treo thiên vạn cổ(8)
    Đường tu xiết kể mấy mươi công.
    Dấu thiêng kiếp trước nào ai biết.
    Phẩm giá người trong giếng cũng trong(9)
    2. Phần II
    Cát thiên tam thế thực lục tự
    Thuyết luân hồi, các bậc nho học không tin. Đấy mới chỉ câu nệ ở lý thuyết, chưa kê cứu thực tế. Khiêm tôi suy nghĩ về điều đó, thực tế vốn đã có như vậy, về lý cũng có như vậy. Xưa nay, thánh triết, hiền nhân, anh lưu liệt nữ há không thay đổi hiển hiện rõ rệt, rực rỡ ở đương thời, lưu danh cho hậu thế, cái lý ấy chẳng phải xác thực lắm sao? Kìa như: Khổng Minh chính là Tử Lăng thời tiền Hán, Trương Phi là Vũ Mục triều Tống. Lời huấn thị của Đào Viên không lừa dối ta. Như Sài Sơn thoát xác, truyền rằng là tiền thân của đế tử(10), Hương động quy y, hiện tái thế ở thuyền từ(11). Sử truyện(12) đã ghi như thế, chẳng phải là hiển nhiên thực tế hay sao?(13) Vân Cát Thánh mẫu là con gái thứ hai của Thượng đế, ba lần hoá sinh, đến nay hiển linh ở Sòng Sơn, Phố Cát. Nhất thời quan thân, sĩ thứ, những kẻ chiêm bái qua lại liền nối không dứt mà nguồn gốc của Quảng cung lại do thiên hạ tự biết đến danh tiếng(14), nghìn năm sau tra cứu, không theo vào đâu mà biết được. Cát Thiên tam thế thực lục này do Thánh mẫu thủ bút, không chỉ vì làm cho Vân Cát bổ sung thêm một truyền kỳ, đồng thời còn muốn làm cho Quảng cung trở thành một cảnh sắc rạng rỡ. Vả lại, sự việc bao quát, từ ngữ sâu sắc, đã biết được lý do đầu cuối mờ mịt. Do thần làm nên vậy ôi! Hôm nay, Khiêm tôi kính cẩn dâng lời. Trần Thánh vương kê cứu, duyệt xem khắp toàn biên, khôn xiết mến mộ, vả lại cũng vui với việc các vị quân tử thích làm việc thiện, giúp đỡ cho thành sự. Tin rằng trong hàng nghìn năm, đây vẫn là chuyện lạ kỳ hiếm thấy, bèn dâng lời tựa ghi lại. Than ôi! Mạn lục của năm trăm năm lẻ, một sớm được chỉnh đốn, ảo cảnh của năm trăm năm lẻ một sớm được mở rộng ra. Những người nương nhờ dưới ánh sáng, nên biết công lao, kinh sách của mẫu không phải là ít bổ ích.
    Ngày mùng 4 tháng 11 niên hiệu Duy Tân 6 (1912), Cổ Am Trạng nguyên Trình quốc công Bạch Vân tiên sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm phụng mệnh bái tựa.
    3. Phần III
    Cát thiên tam thế thực lục tự tự
    Việc thuộc về nghìn năm trước, người sinh ra nghìn năm sau muốn kê cứu việc ấy thật khó vậy. Ta vâng mệnh giáng sinh, niên hiệu Thiệu Bình, Thiên Hựu đến nay 535 năm, thời đại tuy khác nhau nhưng vẫn còn nhớ đến sự vẻ vang rực rỡ của việc ngày trước, liền kê cứu ở nguyên phả, đã có sự thiếu sót, khác biệt, huống hồ theo đó đến nghìn năm sau ai tra cứu mà biết được sao? Vả lại xem những điều ghi chép trong nguyên phả như: hai độ hoá sinh ở Nga Sơn, Vân Cát, đế cho tinh tào hai phen khế hợp, xác thực là có vậy. Còn xem các việc khác như: cầm phổ tứ thi(15) đều là những chuyện nhạt nhẽo nơi gác xuân, những khúc vịnh ở Tây Hồ(16), nào đã từng mời đón khách tục. Như vậy Mạn truyền chưa đối chiếu với thực tế, không chừng tăng thêm nghìn năm nữa lại nhiều thêm sự ngờ vực về những điều kỳ quái vậy ôi. Huống chi việc giáng sinh ở Vỉ Nhuế, dấu tích lạ ở Ba Khê đã lâu nên mai một, ai có thể theo mà chứng thực được những lời nói ở Cát thiên tam thế. Trước ở đền Quảng Nạp, đích thân giáng ngọc phả quốc âm kinh, đội ơn được Trần thánh tổ ta kê duyệt, nhuận sắc thêm cho đúng đắn, muôn phần may mắn liền vâng mệnh giáng bút thêm tiểu dẫn, tên viết Cát thiên tam thế thực lục, dâng lên tấu duyệt, giao khắc lên gỗ, khiến nghìn năm sau đều biết sau khi ta hoá, linh thiêng hiển ứng, gốc nguồn bởi lúc bình sinh ta giữ gìn hai chữ hiếu trinh, chẳng những truyền lại được chân thực, mà còn quy y đắc đạo, vẫn vẻ vang rạng rỡ mãi về sau. Những người nương nhờ dưới ánh sáng nên biết được ngọn nguồn, vậy làm bài tựa(17).
    Ngày 24 tháng 10 niên hiệu Duy Tân 6 (1912), đệ nhất vị Tiên Hương Thánh mẫu giáng bút.
     

    Bình Luận Bằng Facebook

  2. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    tiếp theo ...

    4. Phần IV
    Cát thiên tam thế thực lục
    Ta vốn là con gái thứ hai của Ngọc đế.
    Thanh Tiêu, Hồng Nương là tên chữ của ta,
    Chị ta giữ chức Quản Tam thiên môn,
    Em ta thống lĩnh dinh các tiên,
    Bên ta đều có chị em nơi vườn uyển
    Sớm tối kính cẩn hầu cận ở điện Linh Tiêu
    Một lòng giữ đạo hiếu thảo(18) không dám chểnh mảng
    Đội ơn mưa móc ở nơi Thiên đế
    Bình sinh giữ lòng hiếu hữu(19) vốn bẩm tính trời(20).
    Đến nay chị em cùng thừa hưởng sự yên vui
    Dao cầm giúp Vương mẫu truyền bí quyết
    Thuở thiếu niên đắc đạo ở Tây Hà
    Trên điện truyền xuống có ngọc dụ
    Trong đỉnh luyện kim đan long hổ
    Trên hội bàn đào dâng đan dược
    Chị em cùng được tuyển vào hội tiên
    Ta là Cung nga được xếp hàng thứ hai.
    Đế quân ban thêm(21) là Hồng Ngọc sứ(22)
    Một lòng hiếu hữu, đề cao sự đôn hậu
    Mười hai tiên nương luôn theo hầu cận
    Khi thì phụng chỉ thoả chí vui chơi
    Thần sấm, thần chớp theo sau để nghe sai khiến(23).
    Luân hồi, sinh hoá là ảo hay là thực
    Trước sau mờ tối vốn đều từ một lý lẽ(24).
    Nhà họ Phạm đời trước vốn sớm có thiện duyên
    Thành tâm cầu đảo lập đàn trai.
    Cây đào bên cạnh(25) nẩy một qủa báo điềm tốt
    Sắc giáng hai chữ đề Hồng Liên.
    Lòng này trinh bạch(26) đến cùng không thay đổi.
    Họ Phạm hiếu đạo chu toàn cả
    Tam tinh phụng mệnh đến làm bạn
    Hoá rồi còn để Thạch vân tiên
    Sau gặp tiết Đế quân vạn thọ
    Lỡ tay chén ngọc rơi nứt vỡ
    Bách quan vâng mệnh giáng trần gian
    Sắc giáng hai chữ chẳng phải oan nghiệt cũ(27)
    Phụng dưỡng mẹ cha giữ tròn đạo hiếu
    Vốn bởi duyên xưa kết bạn với Đào Lang(28)
    Trước sinh Nhâm không phải chuyện dối lừa
    Vân Cát đến nay còn nêu gương trinh liệt.
    Trở lại đến nay nào phải chuyện mơ màng
    Nhẹ nhàng cưỡi gió về bên Đế(29)
    Giấy ngọc lần xem màu son chưa nhạt
    Đài gương mở thấy mực còn thơm
    Giang sơn xứ cũ lại du ngoạn
    Đường xanh(30) phẳng phắn cải trang chơi
    Sau sinh Cổn tuổi chưa đôi mươi
    Duyên cũ vốn là Đào Lang xưa
    Thử kể đầu đuôi khắp một lượt(31)
    Thấm thoắt đã ba phen sinh hoá
    Cuối cùng ơn tứ thân đã báo đáp vẹn toàn
    Lòng hiếu này không bao giờ thay đổi
    Tiếng thiêng rực rỡ tới kinh kỳ
    Tứ phương nể phục lập miếu điện
    Ngọc Hoàng xem xét truyền lệnh chỉ
    Sắc phong Liễu Hạnh trấn giữ trời nam
    Học được thuốc trường sinh bất lão
    Khoảng ấy chừng chưa thông cửa thiện
    Đại chấn linh uy khiến Đế giận
    Sắc lệnh ba quan: Tiền - hậu - trung
    Thi phép giải trừ thuật linh hiển
    Sau đó quy y tại Thái Lạng Sơn
    Giúp nước cứu dân linh thiêng rõ rệt
    Trải các triều nhiều lần được ban ơn tặng sắc
    Tính lại lẽ hoá sinh chẳng phải là hư ảo
    Kiếp nhỏ khó trốn trong tạo hoá lớn
    Tiên nhân phật quả đâu phải khó cầu
    Chỉ sao khỏi thẹn đạo nhân sinh
    Thực lòng kính nghĩa sáng đài thiêng
    Muôn gốc nguồn việc thiện đều rất quý(32)
    Cầu khắp nhân gian nghe lời ta
    Mưa móc ẩn ngụ khôn nói xiết.​
     
  3. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    tiếp theo ...

    5. Phần V
    Cát thiên tam thế thực lục tổng tự
    Ta nhận mệnh giáng sinh. Giáng thế lần thứ nhất tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam(33) ở nhà thái ông họ Phạm(34), thủ trinh không lấy chồng, phụng dưỡng cha mẹ, tin việc âm báo, giữ trọn đạo chịu tang, xong trở về trời, kể từ thời vua Lê Thái Tông niên hiệu Thiệu Bình 1 nhằm năm Giáp Dần (1434) đến triều vua Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức 4 nhằm năm Quý Tỵ (1473) khoảng 40 năm. Giáng thế lần thứ hai tại xã Vân Cát, huyện Thiên Bản(35), phủ Nghĩa Hưng ở nhà thái ông họ Lê(36) lấy phu quân Trần Đào Lang - người xã An Thái, sinh được con trai tên Nhâm, kể từ thời vua Lê niên hiệu Thiên Hựu 1 nhằm năm Đinh Tỵ (1557) đến triều vua Lê niên hiệu Gia Thái 5 nhằm năm Đinh Sửu (1577) chừng 21 năm. Giáng thế lần thứ ba tại xã Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá cùng với phu quân Đào Lang tái hợp, phu quân mang họ Mai, sinh được con trai tên Cổn, mới được hơn một năm quay trở về trời. Ngọc Hoàng chuẩn cho trắc giáng như thường, tiêu dao thoả thích, lại du chơi những nơi chốn cũ, ngõ hầu tránh được kiếp khổ luân hồi. Tổng cộng ba lần hoá thân đến nay là năm Nhâm Tý dưới triều Nguyễn, thời vua Duy Tân (1912) cả thảy được 535 năm.
    6. Phần VI
    Cát thiên tam thế thực lục quốc âm
    Khi nhàn tựa án thảnh thơi​
    Ngẫm xem tam thế luân hồi lạ thay​
    Quả tu khéo tại lòng này​
    Hoá sinh, sinh hoá xưa nay ai tường​
    Vẹn sao hai chữ cương thường​
    Tiên nhân phật quả lưu phương dõi truyền​
    Nhớ xưa ở huyện Đại An​
    Xã là Trần Xá(37) về miền Nghĩa Hưng​
    Đương năm Cảnh Thịnh sơ hưng​
    Đổi làng Vĩ Nhuế phỏng chừng tam niên​
    Thôn Quảng Nạp hiệu Huyền Viên(38)​
    Phạm gia tích đức bách niên đã nhiều​
    Xưa làm Phó sứ thiên triều​
    Khâm sai tra sổ phải điều bất công​
    Bút son vâng mệnh đền rồng​
    Giáng Trần Xá xã thôn trung đất lành​
    Đất này tú khí chung linh​
    Lầu đài cổ tích xem quanh cũng kỳ​
    Mấy e tử tức còn trì​
    Trai đàn mong được sau khi nối đời​
    Đêm ngày khấn phật cầu trời​
    Kim tinh thái bạch tới nơi tâu rằng​
    Có nhà dày ở dưới trăng​
    Thái bà phạm lão tin nhằm có thai​
    Ngọc Hoàng mở sổ ra coi​
    Phạm ông ngày trước vốn người thiên cung​
    Bởi vì giữ phép không công​
    Vậy nên giáng điều vào vòng nhân gian​
    Một đời rồi lại tái hoàn​
    Nay xin cầu tự thời bàn làm sao​
    Có quan Bắc Đẩu, Nam Tào​
    Sổ cầm cho mực ghi vào tính danh​
    Tâu rằng xin chút gái lành​
    Kẻo cơ nghiệp ấy sau dành cho ai​
    Đức vua nghe nói êm tai​
    Truyền đòi công chúa thứ hai lên chầu​
    Khuyên con giáng thế ít lâu​
    Hỡi quan văn võ cùng nhau hiệp bàn​
    Tâu rằng đợi đức thiên nhan​
    Non cao bể rộng khôn toan cưỡng lời​
    Công chúa tâu lạy mấy lời​
    Hoá sinh, sinh hoá kiếp người kiếp tiên​
    Kiếp này là kiếp tiền duyên​
    Ghi lòng để dạ chép biên đời đời​
    Thần thông biến hoá mọi nơi​
    Trước Nga hoàng giáng vốn người cung tiên​
    Ngọc nữ thăng lệnh chỉ truyền​
    Vâng lời tấu đến diện tiền vua cha​
    Khấu đầu lạy trước thềm hoa​
    Lạy bà hoàng hậu chính toà vừa thôi​
    Gửi truyền văn võ mấy lời​
    Thờ vua phải giữ lòng thời chỉ trung​
    Quần tiên lạy trước ngai rồng​
    Tâu rằng cho xuống độ vòng bao nhiêu​
    Thấy con nói hết mọi điều​
    Bút son đề chữ Linh Tiêu trên đầu​
    Thông minh linh ứng dài lâu​
    Tứ phương lai cúng phật đầu Dần niên​
    Sênh ca đàn sáo đôi bên​
    Tập tành phượng liễn dưới miền dương gian​
    Phạm ông khi ấy thanh nhàn​
    Mang mang giấc mộng đoàn đoàn tiên nga​
    Khí thiêng sực nức mùi hoa​
    Sao mai thấp thoáng trời đà vầng đông​
    Thái bà chuyển động tâm trung​
    Quế lan ngào ngạt sen hồng nở hoa​
    Huệ hương dâng lấp đầy nhà​
    Giáng sinh mồng 6 tháng 3 giờ Dần​
    Nhãn quang lóng lánh tinh thần​
    Mi ngang vành nguyệt da ngần bọc sương​
    Má đào môi hạnh phi phương​
    Giá so tố nữ tiên nương khôn bì​
    Phú ông xem thấy dị kỳ​
    Giáng thần ứng hiện đặt thời Tiên Nga​
    Yêu như ngọc dấu như ngà​
    Nâng châu dốn bể hứng hoa lưng trời​
    Màn che chướng gấm thảnh thơi​
    Thâm khuê dưỡng dục khác vời tiên cung​
    Ngũ chu thiên tính đã thông​
    Thử xem nền nếp cũng dòng phú gia​
    Chạnh lòng nghĩ đến gần xa​
    Nay tuy đã vậy sau đà sao đây​
    Năm lên mười tuổi khôn thay​
    Một niềm hiếu thuận nết hay ai tày​
    Thung huyên sớm dát tối dầy​
    Quạt nồng đắp lạnh đêm ngày vào ra​
    Tôn thân thượng mục hạ hoà​
    Lời ăn tiếng nói nhu hoà khoan dung​
    Đủ điều ngôn hạnh công dung​
    So xem cốt cách khác trong trần này​
    Đua chen kẻ tớ người thày​
    Ra vào hầu hạ đêm ngày tựa lưng​
    Tới tuần tam ngũ phi phương​
    Bạn tần khách tấn ngổn ngang đầy nhà​
    Thái ông ướm hỏi dò la​
    Gieo thân sớm định để già tâm khoan​
    Nào ai dưới gối thừa hoan​
    Này con riêng phải lo toan việc nhà​
    Chúa rằng đội đức sinh ra​
    Ơn đà bể rộng nghĩa đà non cao​
    Hổ con chút phận thơ đào​
    Hình lâm tử tức triệt vào phu quân​
    Cuộc đời như thể phù vân​
    Thân tiên bán lấy duyên trần làm chi​
    Nhớ khi nuôi nấng phù trì​
    Nghĩ sao báo đáp ân nghĩa cho phu​
    Con xin dốc chí đường tu​
    Chiều hôm ban tối di du vui cùng​
    Mặc ai mối điệp tin ong​
    Mặc ai lá thắm chỉ hồng bán duyên​
    Khi xưa phẩm cách người tiên​
    Lý nào nỡ để Hồng Liên lâm bồn​
    Thái ông nghe nói mừng thầm​
    Hay là đức phật quan âm thân tiền​
    Thôi chi nói sự trần duyên​
    Dù con trong sạch giá tiên mặc lòng​
    Vườn đào châm toả cẩn phong​
    Giữ điều trinh tiết kính cung tiên đường​
    Gái may canh cửi việc thường​
    Rộng ơn thí xá bốn phương dân cùng​
    Nền nhân xây đắp dốc lòng​
    Khói hương thấu đến cửu trùng cho thông​
    Dần dần nhị kỷ ngũ đông​
    Thung đường phút đã xe rồng lên chơi​
    Ngán thay dưới đất trên trời​
    Một người mà gánh hai vai thâm tình​
    Báo ơn tứ đức sinh thành​
    Gần xa ai kẻ nức danh nữ tài​
    Cư tang năm mới được hai​
    Huyên đường hạc giá bay khỏi lên ngàn​
    Thân tiên bao quản tân toan​
    Một mình khôn biết rằng bàn sao xong​
    Biện mời lân lý hương trung​
    Kẻ thăm người viếng tây đông đầy nhà​
    Thôn Trung có kẻ lão già​
    Thấy người thơ ấu nết na thương vì​
    Ngũ thường dạy hết luân ly​
    Hiến trung hai chữ sau thì ắt niên​
    Công chúa quỳ xuống thưa lên​
    Trình rằng ơn nặng dám quên sau này​
    Thôn Trung thu xếp ra tay​
    Hạ tuỳ thượng xướng việc nay chu toàn​
    Đưa người in xuống hoàng tuyền​
    Mặc nàng xem xét báo đền công xưa​
    Trăm năm bao quản nắng mưa​
    Gọi là chút báo tóc tơ sinh thành​
    Thương thay thiên đạo bất bình​
    Trăm năm để giận một mình sao công​
    Ba năm lòng những như lòng​
    Nào ai khuya sớm đỡ cùng việc đây​
    Tới tuần tứ cửu làm chay​
    Đại đàn bố thí 7 ngày 7 đêm​
    Lòng thành thấu đến cửu niên​
    Kim tinh thái bạch tâu lên ngai vàng​
    Tâu rằng ở dưới dương gian​
    Nơi bà công chúa Đại An tấu dày​
    Cù lao chín chữ thương thay​
    Trông ơn thượng đế xá dày siêu sinh​
    Ngọc Hoàng việc ấy đà minh​
    Đêm bộ trắc giáng đế đình mà tra​
    Phán rằng đệ nhị tiên nga​
    Bấy lâu sao vẳng đại la, Quảng Hàn​
    Triều đình tâu trước thiên nhan​
    Tâu còn kỷ nữ tái hoàn tiên cung​
    Ngày nay tang tóc đã xong​
    Một mình xem xóc ngoài trong xa gần​
    Năm qua tháng lại lần lần​
    Phong quang đã khác tiền nhân đó rồi​
    Công chúa tỉnh giấc bồi hồi​
    Tam tinh mộng thấy tới nơi rành rành​
    Tấu rằng người ở động đình​
    Vâng đem ngọc bảo kim tinh lai phù​
    Mười năm giúp nghiệp phù trừ​
    Đào hào vượt luỹ xây hồ ngoài trong​
    Giá so bằng động tiên cung​
    Trúc xanh sắc đàm hồng liên vẻ phô​
    Hữu thiên lý hộ hoạ đồ​
    Tả giáp trung cẩm trung hồ trung quân​
    Đương khi dạo gót vườn xuân​
    Nhớ khi chúc thọ trước sân Ngọc Hoàng​
    Cân đai áo mũ sẵn sàng​
    Các qua văn võ bày hàng đôi bên​
    Quân thiên nhạc mới tấu lên​
    Trân châu mã não ngự duyên sẵn bày​
    Kim đồng tố nữ dang tay​
    Bàn đào đan dược tiến ngay ngự tiền​
    Bầu trời cảnh vật non tiên​
    Mới hay vui thú khác miền trần gian​
    Một lòng đối việt thiên nhan​
    Đêm chiều dáng đợi ngày than gió gì​
    May sao hiện ứng dị kỳ​
    Thổ thần bỗng thấy một vị đến tâu​
    Quản cai long mạch bấy lâu​
    Phụng sai rước chúa về chầu tiên cung​
    Ào ào gió cuốn cây rung​
    Năm mây rạng vẻ hương xung ngất trời​
    Rào rào đá tự nhiên rơi​
    Đề vân mẫu thạch giữ thời tiên vân​
    Đôi tay cất lấy nàng lên​
    Một bên vân thạch một bên vân đào​
    Hộp dầu sẵn có con dao​
    Đem ra ướm cắt vừa vào tay ai​
    Rằng ba giọt huyết dài thay​
    Dẫu ba giọt huyết gọi dày ba khê​
    Xe loan đâu đã gần kề​
    Ba ngày dặn chúa rước về tiên cung​
    Quần tiên vâng lệnh chỉ truyền​
    Tam tinh cùng mấy chúa tiên tái hồi​
    Mở trong ngọc quyển mà coi​
    Tứ phương cúng phật chưa phai chữ vàng​
    Về trời dưới án ngọc hoàng​
    Chào mừng văn võ đòi hàng khi xưa​
    Linh tiêu ngày tháng thẫn thờ​
    Trường sinh đan dược bây giờ quả nhiên​
    Tuy rằng vui thú non tiên​
    Song lòng còn nhớ đến miền Nghĩa Hưng​
    Đương khi tiệc ngọc vang lừng​
    Bỗng đâu chén ngọc tay rời trật di​
    Lạ thay trong kiếp luân hồi​
    đầu thai Lê Thị vừa đời anh quân​
    Ông bà chính đức phúc thuần​
    Hồng y ứng mộng tới tuần nở hoa​
    Thiên đào vui thú nghi gia​
    Lang quân duyên kết xưa là tào tinh​
    Thế tông Gia Thái (1577) năm Đinh​
    Hai mươi mốt tuổi hoá linh dần tời​
    Cung tiên ngày tháng thảnh thơi​
    Đế phong Liễu Hạnh đời đời hiển vinh​
    Nhớ khi tá túc thiên khuynh​
    Một phương ai cũng khiếp linh uy quyền​
    Tam quân vâng chiếu chỉ truyền​
    Ra uy trừ giải một phen pháp kỳ​
    Bấy giờ phật tử quy y​
    Linh thanh hách trạc kinh kỳ biết tin​
    Nhiệm màu phép phật phép tin​
    Dương hoà khảo khoá đầu trên bách thần​
    Trong không bỗng thấy tường vân​
    Kết nên một tấm huyền huân rõ ràng​
    Trên đầu thánh thọ vô cương​
    Dưới đề mã vàng tiên chủ tạ ơn​
    Bách quan hổ bái đầy sân​
    Tâu rằng tiên chủ chán thân hiện hình​
    Chiếu truyền tăng quảng miếu đình​
    Phụng thờ hương khói nức danh xa gần​
    Giang sơn dẫu cũ rộng chân​
    Yên hà vui thú thi vần canh ca​
    Lịch du phố Cát Thanh Hoa​
    Hiện ra cung quán mấy toà tửu lâu​
    Non sùng tiếng lạ đâu đây​
    Đồi ngang nổi tiếng đền Dâu khác vời​
    Trăng thanh gió mát thảnh thơi​
    Theo hầu vú, điện, vân, lôi bốn bà​
    Quế hoa kìa thực cháu nhà​
    Em dâu cung quảng sa bà trước sau​
    Danh sơn sóc địa bấy lâu​
    Sóc Sơn tái hợp phối hầu Đào Lang​
    Nền nhâm, hậu cổn rõ ràng​
    Đông tàn hoa tạ mấy hoàn tiên gia​
    Có khi nhớ tổ tiên nhà​
    Xe loan đạp gió thăm qua cựu phần​
    Cây đa bóng mộ phụ thân​
    La hào đất ấy tổ phần đã lâu​
    Tiên trần nào khác nhiều đâu​
    Chẳng qua chữ hiếu ở đầu mà thôi​
    Tấm lòng trời đất sáng soi​
    Ba đời sinh hoá mấy hồi bao dương​
    Chế thắng hoà diệu đại vương​
    Đời vua Cảnh Trị sắc vàng tặng phong​
    Đến năm thứ tám Gia Long​
    Lịch triều gia tặng sắc rằng ban cho​
    Trăm nghìn muôn đợi ơn vua​
    Cổn hoa một chữ đình chùa muôn thu​
    Cát thiên tam thế mấy câu​
    Tổ tường linh bút dòng đầu sáng ghi​
    Đây là đệ nhất truyền kỳ​
    Biên làm thực lục để ghi đời đời​
    Các câu các chữ không thể tăng, giảm. Thánh mẫu giáng bút một trăm hai mươi lăm câu, đức Thánh Trần kê duyệt một trăm năm mươi mốt câu cộng tất cả là hai trăm bảy mươi sáu câu.
    Phụng Trần triều Thánh tổ phê bảo
    Sự tích Hồng Nương đến nay, việc kê cứu, giáng bút cùng soạn thuật chỉ theo nguyên phả, sao không xem xét, đối chiếu với thực tế! Thực lục Quốc âm kinh ấy, do Hồng Nương giáng bút, đã tâu lên phê duyệt, nghiên cứu, đối chiếu với Quế cung thần lục rất khớp nhau, từ đầu đến cuối không sai khác, văn khí rất lạ lùng, chuẩn giao cho khắc bản in, cùng đón rước sự tốt lành lớn lao.
     
  4. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    tiếp theo ...

    7. Phần VII
    Công chúa Mai Hoa bái tán
    Thiên nhiên tươi đẹp như ngọc không tỳ vết
    Cốt cách sáng trong như Tố Nga ở cung trăng
    Duyên kết Đào Lang tỉnh mộng trần
    Sen trồng vẫn nở hoa như cũ
    Mẫu nghi vọng trọng bền vững tựa đá núi Côi
    Muôn dân được đội ơn nước sông Vỉ Nhuế
    Ba lần sinh hóa đều vốn từ mình
    Nét bút đan thanh ghi chuyện lạ
    Công chúa Quế Hoa bái tán(39)
    Chén ngọc chuyện cũ đã lạnh rồi
    May được đứng trong hàng tiên nơi bệ ngọc
    Chân thân ba kiếp lưu truyện cũ
    Nghìn thu dấu thiêng rõ rệt ở Sòng Sơn
    Thành tiên muốn tẩy tâm trần dễ
    Nhập thế làm sao trốn khỏi tiểu kiếp kia
    Tiếng thiêng rực rỡ xưa nay vẫn thế
    Đương buổi ban đầu đã bao lần học luyện đan.
    Đào Hoa công chúa bái tán
    Hun đúc tinh anh thể ngũ hành(40)
    Sòng Sơn, Phố Cát đội tiếng thiêng
    Một vầng trăng sáng tràn cung ngọc
    Nghìn khe gió mạnh đón xe thuý
    Tiếng đàn trầm bổng buông điệu tục
    Bút hoa tản mạn vọng tâm kinh(41)
    Hoá sinh không vẽ nổi bí quyết trường sinh
    Hiển hách bia đề mẫu hiếu trinh
    Mộc ân đệ tử Đốc học Bắc Ninh Trần Xuân Thiều bái tán
    Là Mẫu thiên hạ, là vị nữ thần
    Cốt cách người tiên khác xa phàm trần
    Một lòng trung hiếu để phúc sẵn
    Luân hồi ba kiếp nhận rõ chân thân
    Quảng cung linh thiêng rờ rỡ như buổi ban đầu
    Dấu vết lâu đài Vỉ thuỷ còn mới mẻ
    Thực lục phát minh nghìn xưa huyền bí
    Truyền kỳ hợp tác bổ khuyết di văn.
    Tứ Tân Sửu khoa Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân nguyên lĩnh Hải Phòng Đốc học Nguyễn Văn Tính dâng thơ bái đề.
    Có mẫu là thân thiết, mẫu là trời
    Trời đưa phật sống làm thần tiên
    Chén ngọc nào ngờ chu thư giáng
    Gậy hoa sao có chữ gấm truyền
    Ba kiếp luân hồi có chút giống nơi trần thế
    Vượt trên Lục kỳ ở đỉnh cao núi Thái
    Cát thiên thực lục dựa ý trời bổ khuyết
    Vũ điện vân lôi dưới quyền người
    Phụ lục đề thơ đền Tiên Hương
    Mẫu nghi thiên hạ tựa trăng sáng ở Sơn Nam
    Vân Cát, Sòng Sơn thấm nhuần mưa phép
    Lại hợp lòng trinh dây đàn không đứt
    Lần sinh đầu tiên giếng lạnh nước còn vị ngọt
    Không không sắc sắc tiên thần phật
    Hoá hoá sinh sinh lần một lần hai lần ba
    Trước sau triều Lê chừng năm trăm năm
    Đến nay dấu thiêng há phải chuyện hão huyền.
    Mộc ân Lộng Đình Phó bảng Quang lộc tự khanh lĩnh Đốc học trí sĩ Đặng Quỹ bái đề
    Đài tiên chiêm bái mấy độ sương sao
    Nay thư thái đến có ý cầu xem
    Hơn mười bẩy năm nhớ về thắng hội
    Tháng ba chơi xuân ngắm cảnh phương du
    Bồng lai cung khuyết như tranh vẽ
    Cỏ cây mây khói thấm say lòng người
    Nhân hứng lên xem quên trở lại
    Tình thơ những muốn ở đây thôi
     
  5. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    tiếp theo ...

    8. Phần VIII
    Cát thiên tam thế thực lục hậu tự
    Công lao của Mẫu trải nghìn vạn thuở nhưng vẫn luôn luôn rõ rệt trường tồn. Đức độ của Mẫu đứng hàng đầu trong trời đất mà ít người được như vậy. Không có bút mực nào có thể tả xiết để tán dương sự tốt đẹp ấy. Duy có sự sinh sinh hoá hoá của Mẫu thì có người biết, có người không biết. Đó là nguyên do để viết nên Cát thiên tam thế thực lục này. Than ôi! Mẫu giáng sinh ở Vân Cát, hiển tích ở Sòng Sơn, người ta đều nghe thấy, nhìn thấy. Như Quảng Nạp, Vỉ Nhuế là nơi Mẫu giáng sinh lần đầu tiên nhưng mà tung tích lại chìm đắm, mờ mịt, từ niên hiệu Thiệu Bình đến nay đã hơn năm trăm năm không nhìn thấy để biết được, cũng như không nghe thấy để hiểu được. Nên Ngọc phả Quốc âm cổ phong thực lục của Mẫu cũng là bất đắc dĩ phải làm vậy. Nhưng không phải vì thế mà thiêng, cũng vì thế mà thiêng lại càng thiêng hơn. Nếu không có đức Thánh Trần nêu tỏ ra ở trước, Bạch Vân bày rõ ra ở sau thì linh bút của Mẫu người ta cũng cho là hư văn mà thôi. Ôi! Ai tin chuyện đó không chỉ tin thôi, ai không tin mà ngờ lại càng thêm nghi ngờ. Liêu tôi sinh tiền đã đích thân xem xét chuyện đó, phỏng theo ba câu đối, một bài văn thuốc, đương thời cũng có nghi ngờ Liêu tôi vì quá tin vậy. Tuy nhiên Liêu tôi cuối cùng không tin vào những điều nghi ngờ, mà lại nghi ngờ những điều đáng tin(42). Đến nay phụng mệnh giáng bạt, nhiều từ không chọn lọc, mới biết Mẫu không cho Liêu tôi là kẻ hèn dốt đã chọn dùng, văn chương khí tiết của Liêu tôi rất được yêu quý(43), đối với Thánh Trần rất coi trọng, đối với Bạch Vân cũng thế(44). Vốn cho là được Mẫu ái trọng, không thế hiền nhân, quân tử, văn tài chẳng thiếu hà tất phải dùng văn Liêu, mà sau này cũng cho là khá. Liêu tôi tuy không văn vẻ cũng kính cẩn ghi mấy hàng chữ bái đề ở tập hậu, không nói mình là giỏi nhưng cũng có thể tuân theo mệnh lệnh của Mẫu. Kìa như ngũ hành phạm thể, ba độ hoá thân, sen nở hoa, đào kết quả, phật quả tiên nhân, linh thiêng đều từ ta, công đức với người, có thể làm được điều đó duy chỉ có bậc thánh trí là thần thông diệu hoá, không phải nhiều lời mà sau này sẽ rõ rệt vậy.
    Phúc thần tiền Đình nguyên các lão Đông La Đỗ Huy Liêu phụng mệnh bái bạt. Kính bạt chỉ đề vài lời vậy thôi!
    Đạo học cùng tôn kính ở Đông Lỗ, thực chỉ nghĩ một câu trung tín, tâm kinh vọng lại ở nước nam, dừng lại ở hai chữ hiếu trinh này. Tạo hoá cân bằng, muôn thuở anh phong, ở chốn nào lại đây, nguồn gốc có từ Dao Trì, Vương mẫu tham dự truyền tiên nhân phật quả, Chế Thắng Đại Vương có được phép huyền diệu siêu thánh nhập thần, đức thật tốt đẹp lắm thay. Văn chương rực rỡ ôi! Hiển linh ở Cát Thiên mà tiếng thiêng bay khắp bầu trời, tam thế hoá sinh mà linh thiêng đến vạn thế. Đó nói đến sự giáo hoá cùng cực, chứ không phải ghi chép những lời hư không lừa dối. Vỉ Nhuế, Nga Sơn, tiền thân, hậu thân, Vân Cát, Tiên Hương, lầu gác, châu thi, ngọc phả, thi ca, đường luật nam âm(45) vừa chính đính lại những chuyện sai nhầm, lẫn lộn truyền lại từ thời tiền cổ vừa khai thông cho những ngờ vực u mê của người đời sau. Quần tiên tán thán ca ngợi, các bậc đế vương tặng phong, các vị Nhất giáp, Trạng nguyên chứng minh được thuyết luân hồi nơi chùa miếu. Cửu Thiên Thánh tổ đã xem xét thần lục ở Quế cung, cho là tinh anh, là linh thiêng, vừa trắc vừa giáng. Thượng Đế ban mệnh, nhân dân ngưỡng vọng, được phong Mã Vàng hoà diệu, các triều ban tặng bổng lộc vinh hoa. Hồng Ngọc được trời sủng ái, miếu mạo thờ cúng nghìn thu. Đến ngày nay, tiết trời tháng ba dưới đất mở hội đông vui, gậy tiên bầy chữ tái hiện lại chữ gấm hoa rực rỡ, phất quạt sùng vân, múa khúc nghê thường. Lạng Sơn, Cát Phố xứ xứ lâu đài, nước phép thẻ thiêng, nhà nhà bái phục mãi mãi, truyền kỳ dấu cũ xa nghe, chén ngọc trên trời, thực lục tân biên càng dương cao tấm gương sáng cho nhân gian, tìm từ hương thơm nơi giếng ngọc(46), năm trăm năm sinh sinh hoá hoá diệu kỳ, nhớ khi nâng chén dâng đào, ba nghìn năm mới kết quả nở hoa một lần, hết thảy đều nhận phúc từ nơi Vương Mẫu(47).
    Mộc ân đệ tử kính cẩn ghi lời bạt(48).
    Ngày rằm, tháng Chạp, năm Nhâm Tý, triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân (1912) Ngày 15 tháng chạp năm Nhâm Tý (1912). Cho đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn, chức Quốc tử giám Tế tửu, thăng lễ bộ Tham tri đã nghỉ việc Khiếu Năng Tĩnh, lạy viết lời bạt. Cho đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu quan Đốc học Hải Phòng Nguyễn Văn Tính kính soát lại.
    Phụng phê: Ngọc phả ghi lại một sự việc, tuy thời gian đã lâu làm cho chìm đắm, không có một lần giáng bảo cho biết, thì ai căn cứ vào đâu mà hiểu được. Phúc thần làm biểu văn toàn dụng thực tự, bạt văn toàn dùng sinh tự, hai thiên, văn điệu sâu sắc theo lối cổ xưa. Thực khen tay bút già dặn của quan Khiếu Tham Tri, bạt văn giản dị mà rất hay.
    Đại Nha tên quận cũ, Vỉ Nhuế là tên làng có đền Quảng Nạp là quán tiên, chợ chiền đồng đúc, nhân dân an nhàn với việc làm ăn và lề thói ở làng quê, cây cối xum xuê, nhà cửa san sát đẹp như tùng trúc chen nhau. Đền thiêng thờ đức Mai Hắc Đế vẫn còn ở đó, che chở dài lâu, dấu lạ của Thạch vân tiên vẫn còn truyền lại, biết bao năm tháng giếng ngọc lắng trong cũng như giáng mây đỉnh núi Côi không tan mất, gió đưa tiếng đàn nửa đã lạc vào cung điện chốn Quảng Hàn, cựu lục quý báu, chân thân vàng ngọc, sinh hoá hoá sinh, không thể vẽ nổi sự huyền diệu của thánh thần, một hai hai một phù hợp với những danh tiếng truyền lại trên đời.
    Mẫu là khuôn mẫu của thiên hạ, thần thông như mạch nước trong lòng đất.
    Cửu thiên Thánh tổ tham dự đối chiếu thực tế ở Quế cung, cùng ngày hôm ấy, các tiên tán dương công lao của mẫu nơi đền miếu, xem lại những sáng tác hay ở kinh thành, đều là những áng văn kỳ lạ khác thường, đọc những áng hùng văn chốn Hồng Lĩnh, ý vị giản dị, không gọi là kinh mà gọi là lục, khiến cho dễ đọc dễ hiểu để mãi vạn năm bổ sung Vân Cát là một truyền kỳ, đến nay Mẫu vẫn là bậc liệt nữ cùng hàng với ba vị bất tử ở trời nam, trắc giáng như thường, cùng nhận phúc ở nơi Vương Mẫu, trước sau duy chỉ có một, xin trông đợi ở các ông.
    Kính cẩn thuật lại mấy lời chắp vào tập hậu.
    Cổ Am Trạng nguyên Trình Quốc Công Bạch Vân tiên sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm phụng mệnh bái bạt.
    Khâm phụng Trần Đại Vương phê: Không có áng văn này, ai mở được cảnh sắc Quảng Nạp!
    Lam Hồng tiên ông phê: Lời văn bao hàm, viết thật khéo léo lắm thay, nghìn thu linh thiêng lại càng linh thiêng, bình văn như thấy Quốc Công sinh thời
     
  6. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    tiếp theo ...

    9. Phần IX
    Phụ lục Quảng Nạp linh từ nghiệm ký
    Dưới triều Nguyễn, năm Kỷ Sửu niên hiệu Thành Thái 1 (1889), Giáp chỉ thôn Trung, xã Vỉ Nhuế họ Đào, tên Hiên có con trai trưởng là Đào Tuân mắc bệnh nặng, vạn phần chết một phần sống, hỏi xem, vận mạng bị ngoại quỷ đeo bám hành hạ nên mời phù thuỷ pháp sư lập đàn trừ bệnh, đến nửa tháng rồi mà không ứng nghiệm, bệnh nhân nguy ngập, mệnh đã tuyệt, khiến cả nhà kinh hoàng không biết lo liệu ra sao, liền hướng về đền Thánh Mẫu cầu xin, mẫu nhảy lên không giá lâm ban cho bùa thiêng nước phép, khoảnh khắc sống lại, tà quỷ đã bị giải trừ, bệnh thuyên giảm rất nhanh.
    Mùa đông năm Canh Dần dưới triều vua Thành Thái (1890), Khiếu Nhất Khiêm là con trai trưởng của Chân Mỹ tiến sĩ Khiếu đại nhân bỗng dưng mắc phải chứng bệnh điên, hỏi bói xem mới biết bị ngoại tà quấy nhiễu nên lập đàn trừ bệnh. Hai năm không hiệu nghiệm, gặp La Ngạn Đình Nguyên Đỗ đại nhân kể lại đầy đủ chuyện Thánh Mẫu linh nghiệm, liền đến thẳng đền kính cẩn cầu đảo, Mẫu giáng đàn thiêng bắt tà trị bệnh, tuần nhật bệnh thuyên giảm. Đông La đại nhân làm ba câu đối, một bài văn tán bách dược rồi tư trình lên quan Kinh lược đại thần đề tấu khâm ban sắc văn phụng thờ để báo đáp lại ơn đức lớn lao của Mẫu.
    Làng này xưa có Nga Hoàng giáng
    Đất ấy nay truyền Ngọc nữ thăng.
    Tiên là người, người là tiên, xét từ Vỉ Nhuế giáng sinh trải qua năm tháng, một mà hai, hai mà một, cùng với Vân Cát truyền chuyện lạ trước sau. Tại đền Thánh Mẫu, thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, ở đấy ốm đau, bệnh dịch hoành hành, đều phải nhờ ơn Thánh mẫu oai thiêng diệt trừ được bình an. Toàn thôn hiệp lực trùng tu miếu vũ, ở thôn ấy, ông Đào Hữu Nhị cùng mẹ Đặng thị cũng dốc sức với việc thần thánh. Kế đến, ông Lê Huy Phan quan phủ phủ Nghĩa Hưng, Tổng đốc Nam Định Dương Khuê, đến tận đền bái đảo, sau làm câu đối để tạ ơn:
    Thần nữ sống giữa nhân gian, là dòng dõi trâm anh thế phiệt, tinh thông huyền diệu ở huyện Đại An, lặng lẽ phò giúp kiếp vận,
    Mộng tràng mở ra bến bờ giác ngộ, nối tiếp những chuyện lạ kỳ cổ xưa về Cát Tiên Thiên Bản, nhẹ nhàng lan toả tiếng thiêng.
    Cung kính ghi lại mấy điều linh nghiệm, riêng chỉ kể những chuyện tiêu biểu, nhìn, nghe, ghi chép lại để nêu rõ cho các vị quân tử có thiện duyên. Như biển rộng mênh, xa tít, thấu suốt sự mầu nhiệm tinh vi, xem xét sự mênh mông sáng rõ, không có bút mực nào có thể chép hết được.
     
  7. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    10. Phần X
    BÁCH HOA VĂN

    Nhất phiên hoa tín nhất phiên tân
    Thực tại Đông quân điển hóa thần
    Thập nhị tiên nương hoàn noãn tọa
    Bất tri nguyên thị thử hoa thân
    Mừng nay gặp hội Tầm xuân
    Kim ngân thanh tịnh trước sân lạy quỳ
    Sai Bách hợp tức thì giáng phó
    Quế với Hòe vàng đỏ chen vai
    Báo tin đó có hoa Mai
    Hoa Đào, hoa Mận những ai đó giờ
    Màu Lan Huệ phất phơ buôn rủ
    Gọi Hải đường giấc ngủ xuân tiêu
    Nữ trinh sao khéo mỹ miều
    Phèn đen sắc nhuộm càng yêu vì tình
    Vẻ Kim Phượng bên mình châu báu
    Với Kim Tiền tranh đấu mùi hương
    Lòng Quỳ xin dãi bóng dương
    Tứ vi không để hạt sương dãi dầu
    Ngọc trâm dắt trên đầu đó sẵn
    Gót Kim liên thơ thẩn vườn hoa
    Đêm xuân Hoa sói la đà
    Ngọc Anh cợt gió Sơn trà ghẹo trăng
    Thủy tiên giá xem bằng quốc sắc
    Sánh Thiên hương tuyết trắng mầu
    Đỗ quyên ánh ỏi bên hè
    Mẫu đơn sắc tía lại khoe sắc vàng
    Hoa Râm bụt cành sương treo nắng
    Bụi Đài bi trải nắng từng phen
    Hoa cam không bén tay hèn
    Hoa hồng, Hoa cậy phẩm tiên trên trời
    Hoa Hồng bạch khác với trầu phẩm
    Đóa Phù dung đỏ thắm không phai
    Trước nhà thoang thoảng Hoa nhài
    Hoa riềng, Hoa nghệ áp nài ưu duyên
    Mầu thanh lịch Hoa huyên điểm xuyết
    Hoa móng rồng tươi tốt phân phi
    Chi lăng hai hải đường trì
    Hoa sưa, hoa muông đông ly sẵn sàng
    Hoa đỗ nhược mấy hàng mưa móc
    Đầy vườn xuân hoa mộc, hoa ngâu
    Hoa sum đỏ chói một màu
    Hoa dương lớp đất, hoa dâu áp thềm
    Hoa cẩm dời càng thêm cảnh sắc
    Hoa xương bồ rất mực thanh tao
    Tử ôụ, kinh giới cũng hào
    Hoa vừng, hoa đại ngạt ngào đưa hương
    Dâng Vạn thọ cát tường sớm ưng
    Dưới thềm loan sắc nức hoa tiên
    Dạ hương mấy đóa yêu kiều
    Hoa na hoa lưu gọi chiều thanh tân
    Duyên kim cải đôi lần hương lửa
    Món đường hồng hớn hở hoa sung
    Đeo mang đó chút hoa bồng
    Hợp tan này lại duyên mong tấn tần
    Hoa bươm bướm chiều xuân giấc mộng
    Hoa sắn bìm sao giọng trêu ngươi
    Hoa thanh hoa khế thêm tươi
    Cài hoa cam cúc miệng cười xinh xinh
    Hoa thược dược ra tình réo rắt
    Rủ rê quan mừng mặt đông quân
    Móng tay hoa đã tới tuần
    Phượng tiên cùng mấy kỳ lân ứng điềm
    Hoa bách nhật êm êm giấc ngủ
    Hoa cẩm cù đầm ấm hơi dương
    Dành dành càng nức mùi hương
    Hoa xoan, hoa táo bên đường xúm quanh
    Hoa thiên lý trên cành phơi phới
    Ngọ thời trà vừa tới thu trung
    Phượng sào đã kén hao bông
    Hoa liên, hoa ngón cũng trong hoa thần
    Đồng nam nữ thiên xuân bái hiếu
    Chúc mừng sinh thọ tiến vô cương
    Trầu cau một nén tâm hương
    Trân châu một bức linh trương để truyền
    Ý bốn câu đầu:
    Mỗi lần hoa nở là một lần bước sang năm mới
    Thực là nhớ Đông Quân khắc điểm hóa mà nên
    Mười hai vị Tiên nương quây quần vui vẻ
    Có biết đâu vốn gốc đều là thân hoa cả.
     
  8. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    tiếp theo ...

    11. Phần XI
    BÁCH DƯỢC LUYỆN VĂN
    (Bài văn luyện trăm thứ thuốc)
    Cõi nhân trần ngỏ lòng chỉ thực
    Cửa thiên tiên nhớ sức uy linh
    Bách đàn tiên cáo huyền minh
    Biết có lấy đức hoàng tinh kẻ mà
    Lưới hổ ma bức tường vây kế
    Cớ lan mao tùy địa len vào
    Rõ ràng đã giáp áo bào
    Giáo ba kích, mũi vệ mâu ai bằng
    Gậy hổ trượng, quỷ tăng thanh giải
    Gươm mã đạo, mãi đại hoàng kinh
    Cổ bí lẫn tiếng kinh linh
    Mễ diêm ngũ đậu khao binh trích tà
    Tướng ngũ hành hỏa ma, mộc miết
    Thổ phục linh, kim tích, thủy ngàn
    Cùng là thủ chí, thủy càn
    Dự chi năm tướng, phục thần ai đang
    Tướng ngũ linh tam hoàng trung đội
    Xích thạch tri, thanh đại, thanh tương
    Bạch vi hắc sửu, hắc khương
    Phá tam ô tặc, mở đường lục lâm
    Tướng nũ vị khổ tâm can toại
    Cùng mỗ hàm, mới lại tân di
    Toan tương, toan táo lệ chi
    Vân đằng vũ giá đồng thì giáng chân
    Đông phương thần chinh đông bích thổ
    Quân bách thiên toái bổ thiên ma
    Tây phương hiệu tương tây qua
    Nam sài, bắc đẳng ấy là tứ phương
    Dương xuân tiết một trường phú quý
    Lệ xuân hồng muôn vựng uy di
    Vụ thu, thu thạch, thu quỳ
    Hạ thì bán hạ, đông thì khoán đông
    Tướng linh xa đó xung tứ tự
    Vị tam tài đấu chữ thiên tương
    Thứ hai địa cốt địa dương
    Thứ ba nhân phát nhàn hoàng nhàn nha
    Các thiên tinh trong tòa thập nhị
    Thử phụ là tướng trí phải chăng
    Sửu thì ngựa tất, ngựa đằng
    Dần là hổ lĩnh, mão bằng thổ ty
    Tướng thìn kia du long kỳ dị
    Xá sùng này tượng tị càng ghê
    Ngọ thì mã liễu mã đề
    Mùi linh dương giác, đầu kê, thần hầu
    Đỗ cẩu huân nào đâu chư đỗ
    Tuất, hơi là triệ lộ tướng ta
    Thần xa cùng với chu sa.
    Hùng hoàng giải độc, ấy ba vị thần
    Xin xứ quân tinh hai mươi tám
    Liễu tây hà, thanh lãm nỗ đâu
    Nào là tất vát, quát lâu
    Nào là phục dực, khiên ngàn hiện hình
    Nào nữ trinh, nam tinh kim đẩu
    Nào tinh hoa, quỷ cửu nhân dân
    Lại sai lăng giác quế tâm
    Hẹn trong tam thất, thiên châm bệnh phàm
    Bà vân mẫu quyền tam bách bộ
    Bất lưu hành tế độ biết bao.
    Vân đài là chốn thanh cao
    Đồng nam đồng nữ ra vào thiên môn
    Tài thao lược vương tôn bá tử
    Trận tung hoành lệ thủy lội hoàn
    Thung dung bày thế thường sơn
    Ra uy cử thắng, rửa oan phù bồn
    Tội bất xá, cát cản tiên thảo
    Quân vô danh tróc dáo xa tiền
    Trị tà giở phép má chiên
    Cứu người lấy nước bán thiên tươi vào
    Tay quyết cao xạ can mười vị
    Cung sơn chi thập nhì thời thần
    Lại nghê tay ấn lỳ lân
    Bạch xà mười ngọn, tám chân bách kỳ
    Phù mộc bút tức thì lại phục
    Thuốc tô phương lập khác hoàn nguyên
    Mới hay là phép cảnh thiên
    Tự nhiên quan chúng bình yên trên đời
    Khói trầm hương lòng người thành kính
    Mùi kim ngân thanh tịch khấn cầu
    Giúp cho thương nhĩ bạch đầu
    Thiên linh vạn tuế, sang giàu, trường sinh.
     
  9. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    tiếp theo ...

    Người phiên dịch
    Trần Việt Anh
    (Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Nam Định)
    Chú thích:
    ([1]) Đế nữ lấy chồng, mẫu không lấy chồng.
    (2) Trinh bạch
    (3) Trước ngôi đền này có một cây đàn, một cái giếng (gò đất hình cây đàn).
    (4) Nói mẫu giáng có nguồn gốc.
    (5) Khác Nga Anh nguồn gỗc giáng thế. (Nga Hoàng, Nữ Anh là con gái vua Nghiêu, còn Mẫu là con gái Ngọc Hoàng).
    (6) Văn sắc bao hàm
    (7) Bách thần bái phục
    (8) Mẫu linh ứng, gốc rễ từ một chữ hiếu này.
    (9) Nói đến giếng ở trước đền.
    ([1]0) (Tích sư Từ Đạo Hạnh là tiền thân của vua Lý Thần Tông).
    (1[1]) (Tích bà chúa Ba)
    ([1]2) Dùng chữ Sử truyện rất khéo léo.
    ([1]3) Viện dẫn điển thiết.
    ([1]4) Hai câu này Thánh mẫu trao lời.
    (15) Đây là do người đời sau trước thuật (nói đến việc mẫu hoạ thơ với ông Phùng Khắc Khoan, ông Tú tài họ Ngô, họ Lý)
    ([1]6) Đó là chuyện hồ yêu ở Tây Hồ
    ([1]7) Lời văn có trang, tờ, có căn nguyên.
    ([1]8) Đề cao chữ hiếu.
    ([1]9) Lại đề cao chữ hiếu
    (20) Chỉ nguồn gốc
    (21) Chữ ban thêm có ý nghĩa
    (22) Ý nói trong các chị em, duy chỉ có Mẫu được ban tặng thêm
    (23) Tứ pháp chỉ nói vân, lôI, điện, không nói lộ vũ
    (24) Chuyển tiếp huyền diệu
    (25) Ở gần nơi Mẫu ở có một cây đào.
    (26) Đây lại đề cao Trinh bach
    (27) Chiểu theo việc trước ở Ba Khê
    (28) Việc này ta không dám trái mệnh cha, song cũng không có ý muốn lấy chồng.
    (29) Thượng đế trách ta trở về khi chưa hết hạn giáng trần.
    (30) Thanh cù là tên xã (nay ở Sóc Sơn, Nghệ An)
    (31) Ý văn trình bày tổng quát, liền mạch
    (32) Ảnh hưởng của chữ hiếu thật huyền diệu
    (33) Nay đổi là Nam Định
    (34) Tên hiệu Huyền Viên, thái bà tên hiệu Thuần Nhất, quê ở thôn Nhuế Duệ xã ấy, nay thủ từ Đoàn Đình Duyệt tức hậu duệ
    (35) Nay đổi Vụ Bản
    (36) Tên huý Đức Chính
    (37) Triều vua Lê, niên hiệu Thiệu Bình 1(1434), xã ấy nguyên tên là Trần Xá, đến thời Tây Sơn niên hiệu Cảnh Thịnh 3 (1875) đổi là thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế.
    (38) Thái ông tên hiệu Huyền Viên, tên huý Đức Chính, thái bà tên hiệu Thuần Nhất, quê ở thôn Nhuế Duệ.
    (39) Quế Hoa là cháu họ của ta.
    (40) Thiên tài. Mẫu được Ngọc Hoàng mệnh danh là Hồng Liên, hồng là sắc hoả, hiệu Hoàng Hoa công chúa, hoàng là sắc thổ, hiệu Ba Khê công chúa là thuỷ, hiệu Liễu Hạnh công chúa là mộc, hiệu Mã Vàng công chúa là kim.
    (41) Lời này nói Tín tâm kinh
    (42) Lời rất khúc triết
    (43) Phúc thần cũng hơi tự phụ
    (44) Lời rất chân thực
    (45) Ý văn bao quát
    (46) Chuyện ở Quảng Nạp
    (47) Ý văn hàm súc, không lộ, đó là linh khí của văn
    (48) Tổng cộng 306 chữ.
     

Chia sẻ trang này