Các ngôi Đền ở khu vực Hà Nội

Thảo luận trong 'Di tích và Danh thắng' bắt đầu bởi kuangtuan, 19/7/14.

Lượt xem: 8,444

  1. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    Đền Cơ Xá

    Đền Cơ Xá là một di tích tín ngưỡng đã được nhà nước xếp hạng di tích quốc gia. Đền tọa lạc ở đầu phố Nguyễn Huy Tự, phường Bạch Ðằng, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, là nơi thờ Thái úy Quốc công Lý Thường Kiệt - người anh hùng dân tộc đã cùng với quân dân Đại Việt đánh đuổi quân Tống, xây dựng đất nước thành một quốc gia phong kiến cường thịnh vào thời nhà Lý.

    Thần chủ
    Ngôi đền thờ
    Lý Thường Kiệt (1019 - 1105), ông tên thật là Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt, người làng Cơ Xá Nam, huyện Quảng Ðức, kinh thành Thăng Long, được vua đổi sang họ Lý (ban quốc tính). Lý Thường Kiệt làm quan dưới ba triều vua Lý: Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông. Ông lập nhiều chiến công hiển hách được ghi trong sách sử. Năm 1069, quân Chămpa thường quấy phá, cướp bóc ở phía nam nước ta. Vua Lý Thánh Tông cử Lý Thường Kiệt vào nam diệt giặc. Ông được làm tướng tiên phong, chỉ huy 5 vạn quân và mấy trăm thuyền chiến. Quân ta thắng lớn, bắt được vua Chăm là Chế Củ, từ đó biên giới phía nam trở lại bình an. Do lập công lớn, triều Lý trao cho ông chức Thái úy, tổng chỉ huy quân đội.

    Vào cuối thập kỷ 60 của thế kỷ 11, nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta. Ở biên giới phía Bắc, tại các châu Ung, châu Khâm, châu Liêm (thuộc các tỉnh Quảng Ðông và Quảng Tây ngày nay), nhà Tống lập căn cứ, mộ thêm quân, tích trữ lương thực, tăng vũ khí. Lúc ấy ở nước Ðại Việt, vua Lý Nhân Tông còn nhỏ tuổi. Lý Thường Kiệt nắm vững tình hình địch, sau nhiều lần tính toán, quyết định đánh đòn phủ đầu vào căn cứ hậu cần của địch. Ông tâu với nhà vua: “Ngồi yên đợi giặc sao bằng đem quân đánh trước để chặn mũi nhọn của chúng”. Cuối năm 1075, ông viết bài văn nói rõ lý do đánh Tống (Phạt Tống lộ bố văn) đã giành được sự đồng tình của nhân dân Trung Quốc. Tiếp đó, quân ta vượt qua biên giới, đánh tan ba căn cứ châu Ung, châu Khâm và châu Liêm.
    Mùa xuân năm 1077, trận quyết chiến chiến lược trên sông Như Nguyệt càng tỏ rõ tài thao lược của tướng quân Lý Thường Kiệt. Khi đó, vua Tống Thần Tông cử Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa chiến, 20 vạn dân phu sang xâm chiếm Ðại Việt. Với phòng tuyến sông Như Nguyệt dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, quân ta đã chặn đứng lũ giặc tại phòng tuyến kiên cố này. Quân Tống đại bại, phải rút chạy về nước.

    Ở Hà Nội, danh tướng Lý Thường Kiệt còn được nhân dân thờ ở đình Nam Ðồng (quận Ðống Ða), đình Thiên Tiên (phố Hàng Bông) và đình Bắc Biên (quận Long Biên).


    Di tích

    Theo các vị cao niên, ngày xưa ngôi đền được xây dựng ở xóm ngoài bãi sông Hồng. Dòng sông chảy xiết mang theo phù sa, tạo nên bên bồi, bên lở nên dân làng phải chuyển dịch ngôi đền vào xóm trong, nơi tọa lạc hiện giờ song vẫn thuộc địa danh Cơ Xá Nam. Ðền có quy mô khá lớn và bề thế với toà nhà tiền tế 5 gian và hậu cung 3 gian nhưng đã bị chiến tranh tàn phá vào năm 1946. Ðến năm 1947 - 1948, dân làng Cơ Xá Nam cùng nhau góp công của dựng lại hậu cung.
    Năm 2005, dự án khôi phục đền Cơ Xá được Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội phê duyệt với tổng mức đầu tư lên tới 7 tỷ đồng bao gồm các hạng mục như phục hồi nghi môn, hai dãy tả vu hữu vu, đền chính, đồ thờ cùng các hạng mục phụ trợ... Đồng thời đền Cơ Xá cũng là di tích được gắn biển công trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
    Ðền Cơ Xá còn lưu giữ được nhiều di vật quý, như bức đại tự có dòng chữ “Uy đức quang minh”; bảy đạo sắc phong của ba vương triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn trong các năm 1758, 1792, 1821, 1844, 1846, 1850 và 1924; ba câu đối cũng bằng chữ Hán ca ngợi thân thế và sự nghiệp của Thái úy Quốc công Lý Thường Kiệt, dịch ra chữ quốc ngữ là:

    “Ðánh Tống, bình Chiêm, phò nghiệp Lý
    Cứu dân, giúp nước, rạng làng Cơ”

    Vào các ngày sóc vọng và nhất là ngày 21 tháng 2 và 22 tháng 8 âm lịch, bà con nhiều nơi đều đến đền Cơ Xá để dâng hương tưởng niệm Thái úy Quốc công Lý Thường Kiệt.

    Đền Yên Thành

    Đền Yên Thành nằm trên phố Phan Huy Ích, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đền Yên Thành được người dân trong vùng khởi dựng vào cuối thời Lê làm nơi phụng thờ Vua Bà Lý Chiêu Hoàng - vị vua thứ chín cũng là đời vua cuối cùng của nhà Lý. Năm 2002, đền Yên Thành được xếp hạng Di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật.

    Thần chủ

    Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Vì vua Lý Huệ Tông không có con trai nên mùa đông tháng Mười xuống chiếu lập Công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng Thái Tử để truyền ngôi cho. Chiêu Thánh lên ngôi đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo. Năm thứ nhất tôn hiệu là Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng húy là Phật Kim, sau đổi là Thiên Hinh, con gái thứ của vua Lý Huệ Tông, mẹ là Trần Thị”. Theo cuốn “Lý Thái Hậu thực lục” bản thần tích chữ Hán và một số tài liệu khác: Chiêu Hoàng vốn là nữ chúa của triều Lý. Tháng 10 năm 1224, Bà lên ngôi Hoàng đế, lúc mới tám tuổi. Tháng 12 năm Ất Dậu, do sự xếp đặt của Trần Thủ Độ, Vua Bà Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh, cũng mới tám tuổi và nhường ngôi cho chồng. Sống với vua Trần nhiều năm mà đường con cái muộn mằn, Chiêu Hoàng luôn có nỗi buồn mênh mông, cảm thấy như có điều gì đã định sẵn tự trời xanh. Bà thường than: “Rừng vàng biển bạc coi nhẹ như không, người con hiếu thảo với Tổ tông phải biết nối dòng giữ nước, việc ấy còn quý hơn cả biển bạc núi vàng”. Bà dâng biểu và được nhà vua ưng thuận. Từ đó, Bà rời cung cấm đi ngao du, thăm phong cảnh và giảng kinh thuyết pháp ở nhiều nơi.
    Năm 1258, Bà được gả cho vị tướng có công đầu trong cuộc chiến dẹp giặc Nguyên xâm lược là Lê Phụ Trần. Họ sống với nhau thuận hòa. Chiêu Thánh sinh được hai người con, một trai, một gái. Bà qua đời năm 61 tuổi. Tương truyền, lúc mất mái tóc vẫn đen, môi vẫn đỏ một màu hoa đào. Hoàng Hậu Chiêu Thánh còn nổi tiếng là người nhân hậu, có lòng từ bi quảng đại.


    Di tích
    Điểm nổi bật của đền Yên Thành là nghệ thuật trang trí trên các bức chạm nổi hình rồng. Kẻ, xà ngang, đấu kẻ chạm hình lá đề, vân xoắn, diềm mái phía trước tiền tế có hình hổ phù, hoa lá, chữ triện.

    Trải qua nhiều biến động của thời gian, đến nay đền vẫn còn lưu giữ được nhiều di vật có giá trị. Đó là những tượng thờ, hương án, sập thờ, cửa võng, kiệu rước mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 19 được nghệ nhân tạo tác rất tỉ mỉ, công phu, thếp vàng lộng lẫy và đều có chạm rồng phượng. Hệ thống tượng tròn gồm 21 pho, trong đó có 9 tượng vua triều lý, và các tượng thánh, tượng chầu. Đặc biệt pho tượng Lý Chiêu Hoàng được thể hiện bằng trình độ nghệ thuật cao. Ngoài ra, đền còn có các tư liệu thành văn như thần tích, sắc phong, bia đá là nguồn sử liệu quý giá góp phần tìm hiểu về lịch sử, văn hóa Thăng Long.

    Đền thờ Bác Hồ

    Vị trí




    Thuộc địa phận Vườn quốc gia Ba Vì (huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội), dãy núi Ba Vì được coi là ngọn núi tổ của nước Đại Việt. Dãy núi Ba Vì có ba ngọn, đỉnh cao nhất là đỉnh Vua, cao 1.296m. Đỉnh giữa là đỉnh Tản Viên, cao 1.281m. Đỉnh thứ ba là đỉnh Ngọc Hoa, cao 1.120m. Trên đỉnh ngọn núi nổi tiếng nhất là Tản Viên có đền Thượng thờ Thánh Tản - một trong “tứ bất tử” theo tín ngưỡng của người Việt (Thần Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Bà chúa Liễu Hạnh). Còn trên đỉnh núi Vua cao nhất tọa lạc một ngôi đền thờ một con người, một nhân vật của lịch sử của thời đại:

    Đền thờ Bác Hồ.

    Nguồn gốc



    Ngôi đền thiêng thờ Bác nằm ở độ cao 1.269 mét, là đỉnh cao nhất dãy Ba Vì. Chuyện kể rằng, sinh thời Bác Hồ muốn tro cốt của mình sau này khi qua đời sẽ được đặt ở ba địa điểm, trong đó có một nơi tại núi Ba Vì. Vì thế, ý tưởng xây một đền thờ Bác ở đây theo di nguyện của Người được nêu ra và ngay lập tức đã được hưởng ứng nhiệt liệt. Công trình tưởng niệm Bác được khởi công ngày đầu tháng 3/1999 và hoàn thành cuối tháng 8/1999. Người được vinh dự thiết kế ngôi đền là KTS Hoàng Phúc Thắng và người nhận trách nhiệm làm chủ nhiệm công trình là KTS Nguyễn Trực Luyện.



    Đặc điểm



    Để đến được đền thờ Bác Hồ, từ chân núi Ba Vì, du khách phải đi ô tô leo dốc quanh co vượt quãng đường dài hơn 10km, tiếp đó, phải leo hơn 1.300 bậc thang đá bên vách núi. Tới đây du khách như lạc vào cõi thiêng, bởi đường đi xuyên qua cánh rừng nguyên sinh với những thân cổ thụ vút cao, sừng sững, rêu phong bám phủ, dây leo chằng chịt, sương mù giăng giăng mặc dù vẫn có mặt trời. Trên đỉnh núi, cạnh đền thờ Bác Hồ được xây dựng năm 1999 là “Tháp Báo thiên” 13 tầng cao 26,9m được xây dựng năm 2011.
    Ngôi đền thờ Bác mang phong cách kiến trúc truyền thống có 4 mái đao uốn cong, dựng trên những chiếc cột tròn kê trên chân đá tảng… Đền được xây dựng theo kết cấu bền vững, uy nghiêm. Chính điện là một không gian mở, không có cửa. Trên bệ thờ đá có bức tượng Bác Hồ đúc bằng đồng trong tư thế ngồi, phía trên là bức hoành phi ghi dòng chữ nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Trên cao là cờ Tổ quốc ghép bằng đá hoa cương màu đỏ. Hai bên bệ thờ là chuông đồng và khánh đồng. Ngoài ra còn nhiều hạng mục công trình khác tạo nên một không gian hài hòa, tinh tế nhưng vẫn hết sức giản dị.
    Những hình ảnh và hiện vật về Bác được bày trang trọng tại đây làm ta càng nhớ tới Người. Trước Đền, một tấm bia đá lớn nguyên khối, mặt trước khắc một đoạn trong Điếu văn của BCH TƯ Đảng Lao động Việt Nam đọc trong lễ tang của Người năm 1969: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra HỒ CHỦ TỊCH, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”. Mặt kia khắc bút tích Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
    Ở bức tường đầu hồi của đền có hình trống đồng với hình bản đồ Việt Nam và dòng chữ màu vàng: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi - Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
    Từ sân đền thờ Bác, nhìn về phía đông nam hiện ra mờ mờ một vùng Ba Vì rộng lớn và những làng xóm ẩn hiện trong sương…
    Từ khi khánh thành đến nay, hằng ngày đền thờ Bác luôn ấm áp khói hương và hoa tươi. Ngôi đền được các cán bộ kiểm lâm của Vườn quốc gia Ba Vì túc trực, chăm sóc bất kể lúc thời tiết khắc nghiệt nhất. Vào những ngày lễ, Tết và ngày mồng Một, Rằm, hương khói càng nghi ngút lan tỏa khắp đền.





    ---------- Post added at 03:53 PM ---------- Previous post was at 03:53 PM ----------

    [h=4]Đền Thượng - huyện Ba Vì - thành phố Hà Nội
    [/h]




    Tọa lạc ở độ cao 1227 trên đỉnh Tản Viên của dãy núi Ba Vì, đền Thượng thờ thánh Tản Viên (Sơn Tinh) thuộc địa phận Vườn quốc gia Ba Vì, huyện Ba Vì (thành phố Hà Nội). Hàng năm rất nhiều người lên đây vừa thắp hương Đức thánh Tản, đồng thời thăm thú cảnh quan thiên nhiên.

    Nguồn gốc



    Đền Thượng tuy nổi tiếng linh thiêng nhưng chỉ mới được khởi công xây dựng từ tháng 10 năm 1993 và hoàn thành vào tháng 12 năm 1996. Câu chuyện xây dựng ngôi đền này đến nay vẫn được người dân địa phương kể lại như một huyền thoại cổ tích: Một ngày kia, bà Đặng Thị Mát (nguyên giáo viên trường cấp 1,2 Thanh Mỹ, Hà Tây cũ) nằm mơ thấy một tảng đá lớn bay dập dềnh trên đầu như muốn đón bà đi. Bà cứ đi theo tảng đá đó cho tới khi nó dừng lại trên đoạn núi cao dày đặc sương. Tỉnh dậy, còn chưa hiểu thế nào thì vài hôm sau đã thấy Ban Giám đốc Vườn quốc gia Ba Vì tới mời bà xây đền Thượng. Trong chuyến đi khảo sát địa điểm xây đền cùng các ngành chức năng, bà Mát vô cùng kinh ngạc khi thấy phiến đá ở đây giống hệt như tảng đá lớn trong giấc mơ của mình, dưới phiến đá còn có 3 pho tượng bằng đá và một bát hương cổ. Là một người mộ đạo, bà Mát phát tâm xây dựng bằng được ngôi đền mặc dù việc xây dựng gặp muôn vàn khó khăn. Được sự quan tâm của chính quyền và sự ủng hộ, tiếp sức của nhân dân, sau hơn 3 năm, đền Thượng với lối kiến trúc độc đáo gồm 3 gian, 2 chái, một nửa mái sau đền là vách đá đã được hoàn thành, tọa lạc vững chãi trên đỉnh Tản Viên như hiện nay.



    Đặc điểm



    Từ bãi đậu xe rẽ phải là cổng đền Thượng uy nghi, du khách còn phải leo hơn 500 bậc đá nữa mới tới cửa đền chính ở chót vót trên cao. Ngôi đền nhỏ được xây theo hình chữ Nhất. Đền chỉ có một mái lộ thiên lợp ngói nghiêng bên của hang. Mái sau đền nằm ngầm dưới lòng tảng đá nên ngôi đền có thế vững chãi, trang nghiêm khá độc đáo. Ba gian của đền Thượng tuy không rộng, nhưng đủ tôn nghiêm khiến lòng người thanh tỉnh. Chính giữa ngôi Tam Bảo là tượng Đức Thánh Tản ngự trong long ngai sơn son thếp vàng. Bên tả thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo và bên hữu là ban thờ Tam toà Thánh Mẫu (Mẫu Thượng Ngàn).
    Qua sân đền chính, leo thêm vài chục bậc đá nữa du khách sẽ tới điểm cao nhất của đền Thượng. Nơi đây có một chiếc lầu tám góc nhỏ thoáng, mát. Trong lầu có đặt tượng Địa mẫu đứng trên quả địa cầu. Cạnh đó là bệ thờ Mẫu Cửu Trùng Thiên, Quỳnh Hoa và Quế Hoa Công chúa. Từ nơi đỉnh cao này du khách có thể thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên thuần khiết trong lành của núi rừng.





    ---------- Post added at 03:54 PM ---------- Previous post was at 03:53 PM ----------

    [h=4]Đền Văn Quán
    [/h]




    Đền Văn Quán thuộc thôn Văn Quán, xã Văn Khê, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Năm 2001, đền Văn Quán đã được nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

    Thần chủ



    Theo thần tích, đền Văn Quán thờ Ả Lã công chúa, người đã có công giúp Hai Bà Trưng đánh giặc giữ nước trong những năm đầu Công nguyên.
    Về sau, đời vua Đinh Tiên Hoàng tặng phong là Ả Lã Năng Đê công chúa, gia tặng Tuệ Tĩnh phu nhân; vua Trần Thái Tông ban cho mỹ hiệu là Diệu Quang Linh Ứng. Đến đời vua Lê Thái Tổ phong là Nhân Uyển Cương Nghị Anh Linh.




    Kiến trúc



    Đền Văn Quán được xây dựng theo hướng nam - tây nam. Trước đền có sân, vườn rộng với nhiều cây cối xanh mát tạo vẻ đẹp cổ kính, thâm nghiêm; bên trái bên phải và sau đều là khu dân cư đông đúc.
    Hiện nay, đền Văn Quán chỉ còn phần Hậu cung. Hậu cung của đền được chia làm hai phần: phần ngoài dài 12,9m, rộng 2,05m; có 4 cột trụ. Tiếp giáp giữa phần ngoài và phần trong Hậu cung có 3 cửa ra vào được nâng cao hơn so với mặt nền. Phần trong Hậu cung là 4 gian dài 10,3m, rộng 6,3m được thiết kế tương đối cân xứng bởi 10 cột, mỗi bên 5 cột tạo thành hình chữ nhật. Bờ nóc Hậu cung, hai bên nóc được đắp bằng vôi vữa đầu rồng mình thú, đầu hướng vào giữa mái, ở giữa bờ nóc có một ô hình chữ nhật trong được đắp 2 con rồng chầu mặt nguyệt hình thân uốn lượn, móng sắc và có điểm xuyết vân mây, hoa lá.




    Di vật



    Tuy nay chỉ còn phần Hậu cung, song điêu khắc ở Hậu cung đền Văn Quán thể hiện giá trị nghệ thuật rất cao. Tất cả các kẻ, con rường,… được chạm trổ công phu, tỉ mỉ, đề tài trang trí phong phú, sinh động.
    Đền Văn Quán còn có một số di vật cổ độc đáo, đặc biệt là di vật bằng đồng và di vật là các đồ thờ bằng gỗ được chạm trổ công phu, tinh xảo, tạo nên sự hài hoà, tinh tế phản ánh tính sáng tạo và đôi bàn tay kheo léo của các nghệ nhân thuở trước.





    ---------- Post added at 03:54 PM ---------- Previous post was at 03:54 PM ----------

    [h=4]Đền Tráng Việt
    [/h]





    Đặc điểm



    Đền Tráng Việt (còn gọi là đền Trong), thuộc thôn Tráng Việt, xã Tráng Việt, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Năm 1994, đền Tráng Việt đã được nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.
    Đền Tráng Việt được xây dựng vào khoảng thời hậu Lê và được trùng tu lớn vào thời Nguyễn. Đền là nơi thờ Ả Lự Minh Vương – theo thần tích là một tướng giỏi giúp Hai Bà Trưng đánh giặc Tô Định bảo vệ đất nước những năm đầu công nguyên.




    Hiện trạng



    Di tích đền Tráng Việt hiện toạ lạc ở vị trí ngoài đê sông Hồng, trên một khu đất rộng, cao ráo, bằng phẳng giữa cánh đồng thoáng mát, bốn mùa đón gió. Đền quay theo hướng Tây. Kiến trúc đền theo kiểu chữ “Đinh” gồm tiền tế và hậu cung.
    Tòa tiền tế 5 gian có chiều dài 18m, chiều rộng 10,2m. Các gian không giống nhau, gian giữa rộng 4m, các gian cạnh rộng 3,5m, với bốn hàng cột gồm 18 chiếc cột gỗ (8 cột cái, 10 cột quân). Cột cái cao 4,7m, cột quân cao 2,8m. Bốn vì kèo được kết cấu theo kiểu “tứ trụ lòng thuyền”. Câu đầu nằm trên đầu cột cái và có các đầu kê đệm giữa các con rường. Toàn bộ các xà ngang dọc ăn mộng với nhau bằng cách lắp mộng đuôi én chặt khít tạo thành một bộ khung rất chắc khỏe. Các cột của đền đều có lỗ mộng ở mỗi chân cột cách mặt nền 0,5m, chứng tỏ đền khi xưa có ván sàn nhưng nay không còn. Dưới các chân cột có kê đá để chống ẩm, nền lát gạch vuông đỏ, trên mái lợp ngói mũi hài.
    Hậu cung có chiều dài 7,20m, rộng 3,50m nối liền với toà tiền tế. Mặt trước hậu cung được làm theo kiểu khám thờ. Với bốn cánh cửa trang trí ở giữa, hai bên là các chấn song đã tạo cho hậu cung vừa kín đáo lại vừa rất ấm cúng. Trong hậu cung xây bệ cao 1,5m làm nơi bài trí đặt ngai thờ.
    Cùng với hệ thống kiến trúc nhỏ gọn song vững chắc, đền Tráng Việt còn lưu giữ những bức chạm trổ có giá trị với đề tài chủ yếu là tứ linh và các cảnh thiên nhiên như hoa, lá, sen, trúc, mai… đặc biệt là các bức chạm hình rồng và cá hóa rồng.
    Ngoài ra, đền Tráng Việt còn có một số di vật quý, đặc biệt là các di vật bằng gốm, đồng và các di vật là các đồ thờ bằng gỗ được chạm trổ công phu, tinh tế.





    ---------- Post added at 03:55 PM ---------- Previous post was at 03:54 PM ----------

    [h=4]Đền Tây Xá
    [/h]





    Đặc điểm




    Đền Tây Xá thuộc thôn Tây Xá, xã Hoàng Kim, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Đền được xây dựng trên một khu đất cao ráo, thoáng mát, xung quanh là khu dân cư thôn Tây Xá đông đúc trù phú. Với cảnh quan đẹp ven sông, đền là một địa điểm tâm linh thu hút du khách tham quan, chiêm bái và tìm hiểu. Đền Tây Xá đã được nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật năm 1993.
    Theo thần tích, đền Tây Xá thờ 3 vị là: Nàng Ả, Nàng Lã và Nàng Mỵ (Ả Nương, Lã Nương, Mỵ Nương) là những tướng lĩnh đã giúp Hai Bà Trưng đánh giặc giữ nước trong những năm đầu Công nguyên. Đền Tây Xá là một công trình tín ngưỡng nằm trong hệ thống di tích thờ các tướng lĩnh tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thời kỳ đầu Công nguyên trên vùng đất Mê Linh.



    Hiện trạng




    Đền Tây Xá được xây dựng vào khoảng thể kỷ 19. Đền quay theo hướng tây nam, kiến trúc kiểu chữ “Đinh” gồm 2 toà: Tiền tế và Hậu cung.
    Toà Tiền tế đền Tây Xá gồm 5 gian 2 chái. Kiến trúc của toà Tiền tế làm theo kiểu chồng rường hạ bẩy, cột và các vì kèo bào trơn, gia cố cẩn thận theo mực thước chính xác, phía trước có 3 ô cửa chính, ngoài hiên có 2 cột trụ xây gạch hình vuông, xung quanh được xây tường gạch chắn, mái lợp ngói âm. Toà Hậu cung của đền gồm 3 gian dài, kiến trúc cũng làm theo kiểu chồng rường hạ bẩy.
    Tuy quy mô kiến trúc không đồ sộ, song đền Tây Xá còn lưu giữ được nhiều bức chạm trổ trên các cốn mê, cốn nách, xà rồng với các đề tài: long, ly, quy, phượng, hoa lá, mây cụm, sông nước phản ánh tư duy sáng tạo, đôi bàn tay tài hoa của các nghệ nhân thời Nguyễn cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.




     
    Last edited by a moderator: 8/10/17

    Bình Luận Bằng Facebook

  2. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền Thái Lai
    [/h]Đền Thái Lai thuộc thôn Thái Lai, xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Đền Thái Lai đã được nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1996.
    Đến Thái Lai thờ Trần Công là huyện tể huyện Chu Diên, đồng thời là thân phụ của Trần Nương - người đã có công giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc Hán xâm lược bảo vệ đất nước. Hiện nay, tại di tích còn có mộ của Trần Công nằm ở phía sau cạnh đền Thái Lai.
    Đền Thái Lai được xây dựng vào đầu công nguyên. Đến thế kỷ 19, đền được tôn tạo như ngày nay. Đền xây theo hướng tây nam giáp sông Cà Lồ. Kiến trúc của đền hình chữ “Đinh” gồm hai tòa: tiền tế 3 gian và hậu cung 2 gian. Cửa đền được trang trí tác môn hình rồng chầu mặt nguyệt, mái lợp ngói mũi.
    Cũng như bao kiến trúc khác thời Nguyễn, trang trí ở đền Thái Lai được kết hợp nhuần nhuyễn giữa trang trí trên gỗ và đắp vẽ, đặc biệt là trang trí ở tác môn, ván gió và cốn mê. Nghệ thuật trang trí điêu luyện, thể hiện nét tài hoa tinh tế của nghệ nhân xưa qua các đề tài vân mây, hoa lá, tứ linh, tứ quý,… tất cả tạo nên nét cổ kính, trang nghiêm cho đền Thái Lai. Ngoài ra, đền Thái Lai còn lưu giữ nhiều di vật, cổ vật độc đáo, đặc biệt là các đồ thờ bằng gỗ.



    ---------- Post added at 03:56 PM ---------- Previous post was at 03:55 PM ----------

    [h=4]Đền Chi Đông
    [/h]





    Vị trí



    Đền Chi Đông toạ lạc tại thị trấn Chi Đông, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Đền Chi Đông là nơi thờ Trương Hống, Trương Hát - là hai vị anh hùng đã có công giúp Triệu Quang Phục đánh đuổi giặc Lương xâm lược.
    Đền được xây dựng ở địa thế đẹp, thoáng mát, liền kề với chùa Chi Đông cổ kính. Bao bọc quanh khu đền là xóm làng trù phú, phía trước là khoảng sân rộng tiếp nối với chợ cổ Chi Đông.



    Đặc điểm



    Đền Chi Đông được xây dựng theo kiến trúc hình chữ “Đinh” gồm toà Tiền tế 3 gian và Hậu cung 2 gian. Mặt trước toà Tiền tế gồm 4 cột trụ vuông và 3 cánh phong được bố trí liên kết thành một tác môn rất đẹp. Cửa chính giữa vào đền xây vòm cuốn, bên trong là cánh phong kiểu tháp 2 tầng có trang trí hình rồng chầu đỉnh, lư, lọ, hoa… hai bên cửa chính là 2 cột trụ có đắp nổi hình hổ phù, long, ly, quy, phượng; đỉnh cột tạo thành hình quả dành, thân cột có đôi câu đối gắn bằng sành, sứ. Tiếp đến là 2 cửa sổ ứng với 2 gian bên của đền, trên cửa là hai cánh phong và ngoài cùng là hai cột trụ thấp nhỏ hơn. Thân các cột này cũng gắn đôi câu đối.
    Tiền tế có kiến trúc chồng diêm 2 tầng 8 mái, kết cấu vì kèo kiểu chồng bồn. Hậu cung có kiến trúc chồng rường giá chiêng, nền đền lát gạch, chân cột kê đá và mái lợp ngói mũi hài.
    Đền Chi Đông cổ kính có kiểu dáng kiến trúc khoẻ đẹp, chạm trổ tinh tế có giá trị quý về nghệ thuật. Với những giá trị ấy, đền Chi Đông đã được nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia từ năm 1993.






    ---------- Post added at 03:56 PM ---------- Previous post was at 03:56 PM ----------

    [h=4]Đền Thiên Cổ - xã Tiến Thịnh - huyện Mê Linh - thành phố Hà Nội
    [/h]Đền Thiên Cổ thuộc thôn Thọ Lão, xã Tiến Thịnh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Đền Thiên Cổ đã được nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1995 bởi tầm vóc và ý nghĩa to lớn mang nhiều giá trị lịch sử, nghệ thuật đặc sắc của ngôi đền.
    Thần chủ


    Đền thờ 4 vị nhân thần đời Trần là: Thiên Tử đại vương Trần Liễu, Hoàng phi phu nhân Lã Thị Thái, Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, Trí Dũng Uy Minh đại vương Trần Quốc Thành. Các vị đều là quý tộc thời Trần đã có công lớn trong việc củng cố, xây dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thế kỷ 13.
    Với công lao to lớn, các vị đã được vua Trần cho lập điền trang thái ấp ở vùng đất Thọ Lão, xã Tiến Thịnh ngày nay. Khi các vị qua đời, để tưởng nhớ công lao to lớn đó, nhân dân đã lập đền thờ mong được sự hiển linh che chở. Đến thế kỷ 20, đền là một cơ sở cách mạng quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

    Đặc điểm


    Căn cứ vào tư liệu lịch sử và niên đại các di vật cổ còn lưu giữ tại đền, thì đền Thiên Cổ được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 14 đầu thế kỷ 15. Đền tu sửa lớn dưới thời Hậu Lê, thời Mạc. Đến thế kỷ 20, đền được tu sửa vào các năm 1942, 1986 và 1993 nên hiện nay đền khá vững chắc.
    Về kiến trúc, đền Thiên Cổ làm theo hình chữ “Công” gồm toà Đại bái, gian ống muống và Hậu cung. Đền Thiên Cổ có nghệ thuật chạm khắc khá tinh xảo với các đề tài tứ linh (long, ly, quy, phượng), tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai),… trong đó hình tượng rồng được miêu tả phong phú như: rồng ngậm ngọc, rồng chầu mặt nguyệt, rồng phun nước, rồng uốn khúc,… mang phong cách đặc sắc thời Hậu Lê cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17.
    Đặc biệt đền Thiên Cổ còn lưu giữ được một số cổ vật quý như: 4 cỗ ngai thờ chạm khắc công phu, một kiệu bát cống, án gian, mâm quy, bia đá khắc năm Cảnh Hưng thứ 12 (1763), lư hương đá, chuông đồng, ngọc phả bằng chữ Hán viết niên hiệu Hồng Phúc (1572) do Nguyễn Bính soạn cùng 10 đạo sắc cho 5 vị đại vương được thờ: Trần Liễu, Lã Thị Thái, Trần Quang Khải và Trần Quốc Thành. Các di vật này đều được sơn son thếp vàng rực rỡ khiến cho đền thêm cổ kính, thâm nghiêm.




    ---------- Post added at 03:57 PM ---------- Previous post was at 03:56 PM ----------

    [h=4]Đền Vườn
    [/h]Tên gọi đền Vườn là do trước kia đền thuộc xóm Vườn, thôn Láng Trung, thuộc đất trại Yên Lãng, tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận; ngày nay đền Vườn toạ lạc tại số 106 phố Pháo Đài Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
    Thần chủ


    Đền Vườn là nơi thờ đức Linh Lang Đại Vương. Ông là Thái tử thứ tư đời vua Lý Thánh Tông (1032-1072), mẹ là cung phi thứ chín, quê ở Đồng Đoàn, xã Bồng Lai, Đan Phượng, trấn Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Ngài có nhiều công lao đánh đuổi giặc Tống ở thế kỷ 11. Khi ngài hóa, được nhà vua sắc phong Linh Lang Đại Vương Thượng Đẳng Phúc Thần.

    Di tích


    Theo người xưa kể lại, đền Vườn trước là ngôi nhà ngói ba gian. Sau nhiều lần trùng tu, khôi phục, đền nay đã khá khang trang.
    Đền được xây bằng chất liệu bê tông giả gỗ, mặt quay ra phía Nhà Văn hóa Láng Trung. Trước đền có một giếng nhỏ, gọi là giếng mắt rồng. Phía bên trái ngôi đền là miếu hai bà (Hồng Hoa công chúa và Bạch Hoa công chúa).

    Hội lệ


    Hàng năm, cứ vào mùng 9 và 10 tháng Giêng âm lịch lại diễn ra lễ hội truyền thống. Các hoạt động chính của lễ hội là lễ tế thần, lễ dâng hương của các cụ ông, biểu diễn văn nghệ như hát chèo, hát cải lương…
    Ngoài lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm, ngày 1 tháng 4 âm lịch, đền Vườn còn tổ chức lễ vào hè gọi là lễ Tam sinh (lễ vật gồm thủ lợn, ngan trắng và gà); đến ngày 1 tháng 7 âm lịch lại tổ chức lễ ra hè.
    Vào những ngày đền Vườn mở hội - lễ, không chỉ thu hút người dân trong phố mà còn thu hút rất đông khách thập phương đến đây dâng hương, lễ tạ tỏ lòng thành kính.




    ---------- Post added at 03:57 PM ---------- Previous post was at 03:57 PM ----------

    [h=4]Đền Yên Xá
    [/h]Đền Yên Xá thuộc thôn Yên Xá, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, thờ Linh Lang Đại Vương.
    Lịch sử


    Nơi đây là đất xã Triều Khúc và thôn Yên Xá của xã Trung Thanh Oai, đều thuộc tổng Thượng Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng (năm Minh Mạng thứ 12 - 1831 đổi làm tỉnh Hà Nội; năm 1889 thuộc tỉnh Cầu Đơ; năm 1904 đổi làm tỉnh Hà Đông). Trong kháng chiến chống Pháp, thuộc huyện Liên Nam, tỉnh Hà Đông. Hòa bình lập lại thuộc huyện Thanh Trì. Từ tháng 6 năm 1961, hai làng Triều Khúc và Yên Xá nhập lại thành xã Tân Triều, thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
    Làng Yên Xá cùng có tên Nôm là Kẻ Đơ với làng Triều Khúc, nhưng thường được gọi Đơ Bùi, xuất phát từ việc làng trồng được thứ khoai lang ăn rất bùi và ngọt.
    Khác với làng Triều Khúc (Đơ Thao) ở bên cạnh, làng Yên Xá chuyên làm nông nghiệp, cấy trồng nhiều giống lúa, hoa màu trở thành đặc sản có tiếng trong vùng. Dân làng còn có nghề làm bánh đúc, xưa kia, sản phẩm rất được người nội thành Thăng Long - Hà Nội ưa chuộng.
    Theo các cụ cao niên thì đền Yên Xá có từ thời Lý, nhưng không rõ năm. Đền ban đầu được dựng bằng tranh tre nứa lá, nằm giữa cánh đồng, gần đền có một cây đa. Trước đền ngày xưa là sông Nhuệ. Năm 1939, người Pháp khơi con sông này qua thị xã Hà Đông, dòng nước trước đền còn lại chỉ như một chứng tích. Qua nhiều lần sửa chữa, tôn tạo đền đã được xây tường lợp ngói ta khá khang trang.

    Thần tích


    Linh Lang Đại Vương được thờ ở khu vực Thủ Lệ - Vạn Phúc - Ba Đình (Hà Nội) nhưng còn được thờ ở nhiều nơi, trong đó có đền Yên Xá, xã Tân Triều, Thanh Trì (Hà Nội). Truyền rằng, đây là nơi ngày xưa ngài về đóng quân, mộ quân, thu trữ, cấp lương thảo, khao quân khi chiến thắng.
    Thần tích lưu tại đền Yên Xá kể rằng: Năm ấy, vua Lý Thánh Tông chưa có người kế tự, một lần vua tuần giá vùng ngoại thành, nhân dân nô nức đến xem, trong đó có nàng Hạo dung nhan khác thường, vua đón nàng về và lập làm đệ cửu cung phi. Khoảng ba, bốn năm sau thì mẹ nàng mất, nàng xin phép vua về mai táng và chịu tang mẹ. Trong thời gian chịu tang mẹ ở phường Thị Trại (Trại Chợ - Thủ Lệ), nàng không dám về triều. Một hôm, nàng ra Hồ Tây giặt lụa và tắm, bỗng có con giao long từ ngoài hồ lao thẳng vào và quấn chặt 3 vòng vào thân nàng, từ đó nàng có mang. Sau 14 tháng, một hôm, khi ra chơi vườn hoa bỗng nhiên nàng mơ màng rồi ngủ thiếp đi, chợt thấy một bậc đại trượng phu mình dài chín thước, đầu đội mũ rồng sáng chói, mặc áo bào đai ngọc rực rỡ, cưỡi mây, đạp mưa tới thẳng trước mặt cung phi thưa rằng: “Thần vốn là con trai Long Vương tên Hoàng Lang, có mệnh xuất thế thác sinh làm con vua”. Nói chưa hết câu, cung phi tỉnh giấc, hôm đó tức ngày 13 tháng Chạp năm Giáp Thìn, đó cũng là ngày sinh Hoàng Lang.
    Khi được một tháng bảy ngày, Hoàng Lang đã lớn dậy ra quân giết giặc: lúc đó quân Tống là Triệu Tiết, Quách Quỳ thống lĩnh các tướng Hồng, Chân, Vũ, Nhị, Dư, Tĩnh, Hoàng, Vĩnh, Trinh chia đường sang xâm lăng. Thế giặc rất mạnh, nhà vua lo lắng, đến cung Thái Hòa bỗng nghe có tiếng tụng rằng: “Nước có người tài, giặc kia có gì phải lo”. Vua hạ chiếu chiêu mộ. Hơn một tháng sứ mới đến Thị Trại. Hoàng Lang đang nằm trên sập nói với mẹ rằng: “Ngoài biên có sự, mẹ gọi người đó lại”. Phi kinh sợ nói: “Thế giặc mạnh, con còn nhỏ lắm sao kham nổi”. Hoàng Lang đáp: “Bé sẽ có lúc lớn, mẹ không phải lo”. Phi đi gọi sứ đến. Hoàng Lang nói: “Nhà ngươi về tâu, xin vua cho ta một cờ hồng cán dài 10 trượng và một con voi”. Sứ về tâu, vua cả mừng, ngay hôm đó ban cấp những thứ Hoàng Lang cần, lại thêm mấy vạn binh theo sau. Hoàng Lang bật dậy gọi voi một tiếng, voi lập tức quỳ trước mặt. Hoàng Lang lên mình voi, cầm cờ, voi phi như bay đến đại đầu phủ Phú Lương. Cờ vừa phất lên, giặc tự tan vỡ. Khải hoàn trở về Thị Trại. Vua thấy Hoàng Lang có công lớn, gọi đến muốn nhường ngôi, Hoàng Lang chối từ không nhận xin về Thị Trại.
    Trải được bảy tháng thì Hoàng Lang bị bệnh, thuốc gì cũng vô hiệu. Vua đến thăm. Hoàng Lang tâu: “Thăng giáng hữu kỳ, không phải việc của con người. Nếu như vua cha thương xót, xin cho cắm lá cờ hồng ở trước cửa Đại Hưng. Sau khi con mất, lá cờ bay lên không trung phàm tất cả những nơi nhìn thấy lá cờ đều lập đền thờ mà hương khói, như thế đủ lắm rồi”. Vua chuẩn y, cho dựng màn trướng, xong xa giá mới về. Chỉ lát sau Hoàng Lang hóa thành một con giao long trắng dài hơn 10 trượng chui vào hang đá lớn ở trong đầm rồi trườn đến hồ Dâm Đàm biến mất, trời đất mờ mịt suốt mười ngày. Hôm ấy là ngày 10 tháng Hai năm Đinh Tỵ (1077). Trong khoảng thời gian đó cờ hồng bay trên không, có tất cả 269 nơi nhìn thấy, vua cho những nơi ấy lập đền thờ, phong là Linh Lang Đại Vương và xây đền thờ chính ở Thị Trại, cho trại này giữ lệ cúng tế Vương. Do đó trước cửa đền có đắp đôi voi nên có tên là đền Voi Phục. Về sau, Ngài còn hiển linh âm phù cho vua Trần Thái Tông đánh giặc Mông Cổ, âm phù cho Nguyễn Thái Uý nhà Lê tiễu trừ nhà Mạc... được phong thượng đẳng thần.

    Di tích


    Đền Yên Xá xây hình chữ “Nhị”. Diện tích đền hiện nay là 2.400 m2. Tiền tế bày hương án và đôi hạc quý. Hậu cung còn giữ được bài vị và ngai cổ từ năm 1861. Tượng Ngài bằng bông. Đặc biệt bên trái phía sau đền có bệ Thần Nông là nơi linh thiêng để nhân dân đến cầu mùa màng bội thu.
    Đền còn giữ được nhiều hoành phi, 14 bộ câu đối và 38 đạo sắc phong. Sắc phong sớm nhất là niên hiệu Vĩnh Tộ (vua Lê Thần Tông) phong: Đôn hậu Thuần Tín cảm hóa hộ quốc tế thế an dân bảo cảnh. Sắc phong sau cùng thứ 38 niên hiệu Khải Định (Nguyễn Hoằng Tông 1916-1925) phong: Dụng chí Quốc Khánh.
    Lễ hội đền diễn ra 3 ngày (từ mồng 9 đến ngày 11 tháng Hai âm lịch). Chính lễ là mồng 10. Đêm mồng 9 rước liềm, rước tượng Ngài lên đền; 12 giờ đêm rước Ngài ra bệ Thần Nông để phong mũ, áo; ngày 11 rước Ngài về cung. Cỗ ngày lễ có thịt thủ, xôi trắng. Lễ rước có long đình, hương án, kiệu, bát bửu...
    Đền Yên Xá đã được nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia từ năm 1990.

    ---------- Post added at 03:58 PM ---------- Previous post was at 03:57 PM ----------

    [h=4]Đền Nhân Nội
    [/h]




    Đền Nhân Nội xưa thuộc đất thôn Nhân Nội, vào đầu thế kỷ 19 thôn có tên nôm là Hàng Nồi, thuộc tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương. Hiện nay, đền Nhân Nội ở số nhà 84A phố Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Đền Nhân Nội cùng với đình Nhân Nội là một trong nhiều di tích thuộc khu phố cổ Hà Nội, được người dân đất Hà thành trân trọng gìn giữ.

    Đặc điểm



    Tương truyền đền Nhân Nội là nơi thờ công chúa Lân Ngọc. Ngoài ra, đền Nhân Nội hiện còn kết hợp thờ Mẫu theo tín ngưỡng dân gian.
    Theo tư liệu trong dân gian, đền Nhân Nội đã có từ lâu, đến năm 1952 được sửa chữa, thay 4 cột gỗ, sửa mái tiền đường và tu bổ phần hậu cung, thờ thêm tượng Mẫu. Sau đó có thời kỳ đền được sử dụng làm lớp học cho trường phổ thông cơ sở Lê Văn Tám. Năm 1993, hậu cung được trùng tu với khung bê-tông. Năm 1997, tiền đường và trung đường được tu bổ lại theo lối kiến trúc như hiện nay.



    Di tích



    Đền Nhân Nội có cổng được xây trụ nhỏ, thân trụ đắp câu đối, trên làm mái đắp giả ngói ống, trước cổng đắp nổi 3 chữ Hán: “Nhân Nội từ”. Cánh cổng làm bằng gỗ. Đền chính làm kiểu chữ “Tam” gồm 3 nếp nhà: tiền đường, trung đường và hậu cung.
    Tiền đường có 3 gian với 2 vì kèo gỗ làm kiểu quá giang trụ trốn, mái nhà lợp ngói tây.
    Trung đường có mái đổ bê-tông, trên dán ngói vảy rồng. Chính giữa xây bệ đặt khám thờ Đức Đại vương, hai bên là khám nhỏ thờ Hoàng Bảy và Hoàng Mười theo tín ngưỡng dân gian. Phía trước ban thờ Đức Đại vương là ngai nhỏ thờ công chúa Lân Ngọc. Ở hai bên tường hồi là ban thờ cô, cậu…
    Hậu cung làm 3 gian, mái cao vượt, khung giằng bê-tông. Hậu cung được nối với trung đường bằng 2 cửa ra vào, một bên ghi “Sơn Trang động”, một bên ghi “Thánh Mẫu cung”. Trong hậu cung có hai án gian, ở giữa đặt khám lớn, sơn son thếp vàng để tượng thờ Mẫu Liễu Hạnh. Bên phải đắp động Sơn Trang trong thờ bà chúa Thượng Ngàn, bên trái đặt hai khám thờ Ngũ vị tôn ông và Tứ phủ chầu bà. Tất cả các khám thờ, nhang án đều được chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng.



    Di vật



    Đền Nhân Nội còn lưu giữ một số di vật như 6 đạo sắc phong thần, sắc sớm nhất là Thiệu trị thứ 6 (1846) và muộn nhất là Duy Tân thứ 3 (1909). Bên cạnh đó còn có ngai thờ, khám thờ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 19-20 với những nét chạm đẹp, tinh tế.


    ---------- Post added at 03:58 PM ---------- Previous post was at 03:58 PM ----------

    [h=4]Đền Sơn Hải
    [/h]




    Đền Sơn Hải là nơi thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo. Đền tọa lạc ngoài bãi sông Hồng, thuộc phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Năm 2010, UBND thành phố Hà Nội đã công nhận Di tích lịch sử văn hóa đối với đền Sơn Hải.

    Lịch sử



    Thời nhà Nguyễn, đền Sơn Hải thuộc xứ Vạn An, thôn Đông Bộ Đầu, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội. Dựa trên ngọc phả và trên các sắc phong của vua các triều đại trước, có thể khẳng định đây chính là nơi mà Trần Hưng Đạo đã ba lần xuất quân đánh đuổi quân Nguyên - Mông. Nói cách khác đây cũng chính là nơi khởi thủy của những chiến thắng Vạn Kiếp, Bạch Đằng đã đi vào lịch sử.
    Bến Đông Bộ Đầu thời Trần nằm tại bờ nam sông Hồng, từ dốc Hàng Than - Hòe Nhai đến dốc Vạn Kiếp ngày nay. Đây là nơi quân dân Đại Việt đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất (1258). Và tháng 8 năm 1284, Trần Hưng Đạo đã cho quân tập trận tại bến Đông Bộ Đầu. Người đã đọc “Hịch tướng sĩ” để khích lệ tướng sĩ bước vào cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai. Đây cũng là nơi Trần Quang Khải, Thượng tướng Thái sư, đánh bại đoàn quân của Thoát Hoan, buộc y phải bỏ kinh thành Thăng Long, vượt sông Hồng, tẩu thoát...
    Với chiến tích lẫy lừng này, dân vạn chài bến Đông Bộ Đầu đã hưng công lập đền Sơn Hải (khoảng cuối thế kỷ 18) để tưởng kính công lao to lớn của Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo và tướng sĩ Đại Việt đã xả thân cứu nước.



    Di tích



    Đền Sơn Hải nằm trong quần thể di tích quanh Hồ Gươm – với tên cổ là “Sơn Hải linh từ”, hàm ý ca ngợi công đức của vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo cao như núi, lớn như biển, trường tồn với non sông đất Việt.
    Đền đã được nhiều đời vua triều Nguyễn như Khải Định, Thiệu Trị ban sắc, phong thần (đạo sớm nhất là năm Thiệu Trị thứ 6 - 1846). Hiện những sắc phong và tấm bản đồ khu vực này thời nhà Nguyễn vẫn được lưu giữ trong đền, trở thành những tư liệu lịch sử quý giá.
    Trong đền có bức tượng Đức Thánh Trần được tạc rất công phu, xứng là một tác phẩm nghệ thuật. Hai bên có tượng Yết Kiêu và Dã Tượng, là hai bậc gia tướng của ngài. Đền còn giữ được nhiều bộ câu đối sơn son thếp vàng rất cổ kính, trong đó có câu mang nghĩa: “Dấu tích bến Chương Dương từ nghìn xưa truyền lại. Đền thiêng Hàm Tử còn mãi với mùa xuân”. Hay đôi câu đối:
    Bạch Đằng thủy trận lưu thanh tích
    Đông Hải hùng binh vạn cổ thần
    Tạm dịch:
    Trận Bạch Đằng dấu tích còn mãi
    Tướng sĩ biển Đông xưa hóa Thần.
    Đền Sơn Hải với bề dày lịch sử, còn lưu giữ một khối lượng lớn những di vật phong phú về loại hình, đa dạng về chất liệu, nhiều về số lượng, phản ánh được chiều sâu của lịch sử văn hóa cổ truyền: từ kiệu gỗ, cuốn thư, hương án, khám, ngai thờ, cửa võng, chuông đồng, sắc phong bằng văn bản chữ Nôm đến hoành phi, câu đối, đại tự, các đồ khí tự… Đó là những văn bản, hiện vật có giá trị, góp phần tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử nghệ thuật, lịch sử thủ đô, lịch sử làng xã Việt Nam và nhân vật lịch sử Trần Hưng Đạo cùng vương tộc triều Trần.


    ---------- Post added at 03:59 PM ---------- Previous post was at 03:58 PM ----------

    [h=4]Đền Xuân Yên
    [/h]




    Đền Xuân Yên hiện nay ở phố Hàng Cân, phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Nét trầm mặc của đền Xuân Yên hoà cùng nét cổ kính nơi phố cổ Hà Nội tạo nên những điểm nhấn tham quan cho khách phương xa.

    Thần chủ



    Đền Xuân Yên xây dựng khoảng cuối thời nhà Lê, thờ vị Phúc thần tên là Lân Ngọc - người có công phù giúp cụ Tổ ông Nguyễn Văn Tuân và Nguyễn Quý Bình dẹp quân Chiêm Thành, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Khi dẹp xong giặc ngoại xâm, cụ Tổ họ Nguyễn nhớ công ơn của ông Lân Ngọc, đã lập đền thờ.
    Ngoài việc thờ Phúc thần Lân Ngọc, đền Xuân Yên còn thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Đức Thánh Trần, Thánh Mẫu Thượng Ngàn.



    Di tích



    Trong quá trình tồn tại, đền Xuân Yên đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Năm 1952, ngôi đền được trùng tu lớn. Đến năm 1994 lại tu sửa phần cung thờ Mẫu.
    Đền Xuân Yên hiện được xây dựng trên một khu đất sát đường phố Hàng Cân. Đền quay hướng đông, kết cấu kiểu chữ “Đinh”. Toà tiền tế một gian, đổ trần bê tông hai mái, lợp ngói ta, nền lát gạch hoa. Hậu cung hai gian rộng, xây chạy dọc về phía sau. Mái làm tương tự như nhà tiền tế, một gian lợp ngói ta, một gian đổ mái bằng bê tông cốt thép. Cổng đền làm kiểu tam quan có 3 cửa kiểu vòm, trên nóc cửa chính có đắp hình mặt nguyệt hổ phù. Hai bên tường hồi đắp nổi hình hai ông hộ pháp.



    Di vật



    Đền Xuân Yên hiện còn lưu giữ nhiều di vật có giá trị lịch sử nghệ thuật, thuộc thế kỷ 19 - 20, như 3 tấm bia hậu niên hiệu triều Nguyễn, ghi việc tu sửa đền và ghi việc hậu, trong đó một tấm bia niên hiệu Minh Mạng thứ 2 (năm 1821), một bia niên hiệu Thiệu Trị; 14 pho tượng tròn sơn son thếp vàng lộng lẫy, 1 hương án chạm rồng, 1 bộ thiếp vàng, 1 cây quán tẩy chạm rồng, 1 bức cửa võng chạm rồng, 4 cỗ long ngai chạm rồng, 4 khám thờ chạm tứ linh, 1 tấm nghi môn chạm rồng, 1 quả chuông đồng niên hiệu Tự Đức (1848-1883), 4 đôi câu đối ca ngợi cảnh đẹp của đền, 6 bức hoành phi sơn son thếp vàng. Đây là những di vật cổ quý, có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao.






    ---------- Post added at 03:59 PM ---------- Previous post was at 03:59 PM ----------

    [h=4]Đền Hoả Thần
    [/h]




    Đền Hỏa Thần là ngôi đền duy nhất ở Việt Nam thờ thần Hoả (thần Lửa). Đền tọa lạc tại số nhà 30 phố Hàng Điếu, phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Năm 1996, đền Hoả Thần đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia, di tích góp phần gìn giữ một nét đẹp văn hóa tâm linh của cư dân khu phố cổ.

    Nguồn gốc



    Sử cũ ghi lại: phố Hàng Điếu nằm trong “36 phố phường” cổ xưa của Thăng Long - Hà Nội, những dãy nhà ở đây chủ yếu là tranh tre, nứa lá, lại chuyên buôn bán các loại hàng dễ cháy như điếu ống bịt bạc, bịt vàng, điếu bát, điếu cày… nên hỏa hoạn xảy ra thường xuyên.
    Đền Hoả Thần được xây dựng vào thời kỳ đầu nhà Nguyễn, vào năm Minh Mạng thứ 19 (1837), Tổng đốc Hà Nội bấy giờ là Đặng Văn Hòa đã vận động nhân dân cùng nhau xây dựng đền thờ Hỏa Thần, những mong thần Lửa phù hộ, ngăn ngừa hỏa hoạn, tạo giúp cho nhân dân yên ổn làm ăn, buôn bán, ổn định cuộc sống.



    Kiến trúc



    Theo các văn bia còn lưu giữ trong đền, đền Hoả Thần đã trùng tu sửa chữa nhiều lần qua các đời: Thiệu Trị thứ nhất năm 1841, Tự Đức thứ nhất năm 1848. Kể từ lần trùng tu năm 1848 đến nay, đền chưa sửa chữa lớn thêm lần nào.
    Ngày nay ngôi đền cổ kính này vẫn bảo tồn vẹn nguyên giá trị nghệ thuật của kiến trúc. Nằm trong khu phố cổ Hà Nội, đền Hoả Thần là di tích có quy mô kiến trúc lớn hơn cả, với bố cục hình chữ “Công”, bao gồm nhà tiền tế, phương đình và hậu cung.
    Tiền tế là một nếp nhà ngang 3 gian, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung đỡ mái có 4 bộ vì kèo, nền nhà lát gạch Bát tràng cổ, hai tường hồi gắn hai tấm bia đá có niên hiệu Thiệu Trị, ghi nội dung việc xây dựng, trùng tu và ghi công đức. Trên cửa ra vào treo bức hoành phi “Hoả thần từ”, được làm vào giữa mùa xuân năm Giáp Tý, đời vua Tự Đức thứ 17, 1864.
    Toà phương đình được xây dựng tiếp giáp sau tiền tế, mặt bằng hình vuông, kiểu 4 mái với các góc đao cong. Dọc theo hai bên diềm của mái sau và trước chạm thủng hoa văn rồng chầu. Trên các con rường, đấu kê được trang trí dày đặc các hình chạm nổi vân mây, lá lật và cánh hoa sen. Đặc sắc nhất là giữa câu đầu và xà đai nối các cột có tượng nghê lớn chạm bằng gỗ.
    Hậu cung có 3 gian, cao vượt hơn so với toà tiền tế và phương đình. Hậu cung được xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bốn bộ vì kèo đều làm theo kiểu kẻ chuyền. Gian giữa xây bệ cao làm bàn thờ thần Hoả. Tượng thần Hoả trong tư thế ngồi, mặt đỏ, phương phi, mặc long bào, được đặt trang trọng trong khám thờ lớn chạm rồng, hai bên ngoài khám có 2 vị Thị giả đứng chầu.



    Lễ hội



    Hàng năm, lễ hội đền Hoả Thần được tổ chức vào ngày 28 tháng 3 và 28 tháng 9 âm lịch (xuân thu nhị kỳ) tương ứng với ngày sinh và ngày hoá của Hoả Thần.
    Đây là dịp để nhân dân trong vùng tập trung tụng kinh, tế lễ, cầu an cho bách gia trăm họ, đặc biệt cầu mong hoả hoạn không xảy ra.
     
  3. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền Cổ Lương
    [/h]




    Đền Cổ Lương tọa lạc ở số nhà 28 phố Nguyễn Siêu, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Đền thờ công chúa Liễu Hạnh hay Mẫu Liễu, một vị nữ thần được thờ trong đạo Mẫu theo tôn giáo truyền thống của Việt Nam.

    Lịch sử



    Huyền thoại tiên Liễu Hạnh giáng trần hai lần như một cô gái xinh đẹp và người vợ nết na rồi hiển linh đã được lưu truyền rộng rãi ở nhiều vùng quê trong nước, đặc biệt ở vùng Bắc bộ. Mặc dù sự tích mới chỉ xuất hiện vào thời Lê Trịnh, song bà chúa Liễu đã sớm được dân gian tôn làm một trong “Tứ bất tử” của thần nhân đất Việt. Vua Lê Huyền Tông từng sắc phong bà là “Liễu Hạnh công chúa”, đến thời Nguyễn lại suy tôn bà làm “Mẫu nghi thiên hạ”. Nơi thờ bà chúa Liễu thường là các đền phủ và một số điện mẫu ở hậu cung các chùa.
    Theo bia “Cổ Lương hương đình ký” được làm ngày lành Tự Đức thứ 3 (1879) do tiến sĩ Vũ Nhị, hiệu Đông Hầu, đốc học Hà Nội biên soạn, Nguyễn Mặc Khanh viết; văn bia ghi: Thôn Cổ Lương tiếp giáp mé sông Nhị Hà, dân cư là người làng Khúc Thủy, đền thờ hai vị chính thần là Phổ Tế và Nam Hải. Công lao sự nghiệp của Thần trong tự điển có ghi chép rõ ràng. Nhưng ngôi đền lúc mới xây dựng chỉ lợp cỏ tranh đơn sơ. Hơn trăm năm dân cư ca mừng tụ họp ở đây mà đền thần vẫn còn như cũ... Về sau, có vị lý trưởng họ Đào tên là Đằng tiếp nối ý cha, đứng ra hưng công xây lại đình mới, lợp ngói.
    Như vậy, đình làng Cổ Lương vốn là một ngôi đền thờ thần đã bị cũ nát có từ cách đó hơn trăm năm, sau dân làng Cổ Lương thờ công chúa Liễu Hạnh làm Thành hoàng làng, nên trong đình có đền thờ bà. Ngày nay đình đã bị lấn chiếm, chỉ còn đền.



    Hiện trạng



    Ngôi đền hiện nay khá khang trang, sạch đẹp, mặt quay về hướng nam, gồm có cổng nhỏ, sân hẹp tiền tế và hậu cung. Những gì còn lưu lại mang phong cách kiến trúc nghệ thuật triều Nguyễn. Nội thất gồm 3 gian tiền tế và một hậu cung kiểu đơn giản với bộ khung bằng gỗ lim.
    Đền Cổ Lương còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị, như 2 sắc phong Liễu Hạnh công chúa: một có niên đại Duy Tân thứ 5 và một có từ năm Khải Định thứ 9. Trong đền còn 4 tấm bia đá thời Nguyễn, 4 bức hoành phi gỗ, 6 câu đối với nội dung ca ngợi công đức của Mẫu Liễu Hạnh. Lại còn hai bức cuốn thư gỗ, 3 ngai thờ, 18 pho tượng, cùng một số đồ thờ khác: lọ hoa, cây nến, bát hương sứ, đồng, bộ bát bửu.
    Ngoài ra còn có một quả chuông đồng to với “Cổ Lương chung ký” (Bài ký trên chuông đồng Cổ Lương) được đúc vào niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843). Bài ký này ghi mục đích, ý nghĩa của việc đúc chuông để lại cho muôn đời sau, ghi tên những người đóng góp công đức để tu sửa đền và đúc chuông.
    Đặc biệt, đền Cổ Lương hiện còn lưu giữ nhiều tư liệu chữ Hán: văn bia, hoành phi, câu đối, sắc phong ca ngợi công đức của Mẫu Liễu Hạnh. Bức hoành phi ghi: “Thao thuỷ khôn tinh” (Đức kiên trung như nước sông Thao). Hay đôi câu đối viết:
    “Tây Hồ dạ nguyệt quy tiên hạc
    Sùng Dĩnh xuân hoa ám khải vân”.
    Nghĩa là:
    “Trăng đêm Tây Hồ đưa đón hạc tiên
    Hoa xuân Sùng Dĩnh vấn vương mây rạng”.
    Cho đến ngày nay, với kiến trúc còn nguyên vẹn cùng cảnh quan bên ngoài khá đẹp, lại nằm ngay trên phố cổ Nguyễn Siêu gần Ô Quan Chưởng, đền Cổ Lương là một điểm dừng chân lý thú cho khách tham quan trong và ngoài nước khi đến với thủ đô Hà Nội.






    ---------- Post added at 04:00 PM ---------- Previous post was at 03:59 PM ----------

    [h=4]Đền Ghềnh
    [/h]Không chỉ là nơi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của nhân dân địa phương, đền Ghềnh còn lưu giữ và nhắc nhớ một giai đoạn lịch sử gắn liền với số phận bi thương của Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân.
    Vị trí - Đặc điểm


    Đền Ghềnh nằm trong con ngõ nhỏ, ngay cạnh sông Hồng, xưa thuộc thôn Ái Mộ, xã Bồ Ðề, huyện Gia Lâm, nay là phường Bồ Ðề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
    Đền Ghềnh thờ công chúa Lê Ngọc Hân. Đền còn có tên khác là Thiên Quang linh từ; gọi là đền Ghềnh vì xưa trước cửa đền có một ghềnh nước lớn, theo năm tháng, dòng chảy biến động, con ghềnh mất đi và chỉ còn được nhắc nhớ qua tên gọi: đền Ghềnh.

    Dấu ấn lịch sử


    Cho đến nay, dân gian trong vùng vẫn lưu truyền sự tích đền Ghềnh gắn với số phận bi thương của công chúa Lê Ngọc Hân, người được cả kinh thành Thăng Long xưa gọi là “Chúa tiên” bởi dung nhan xinh đẹp, cầm kỳ thi họa đủ tài xuất chúng.
    Năm 16 tuổi, công chúa Lê Ngọc Hân, con gái yêu của vua Lê Hiển Tông và Từ cung Nguyễn Thị Huyền kết duyên châu trần với Nguyễn Huệ, tại kinh thành Thăng Long năm Bính Ngọ (ngày 11-7-1786) rồi lên ngôi Bắc cung Hoàng hậu ở Phú Xuân (1789); nhưng chỉ ba năm sau, vua Quang Trung đột ngột ra đi. Ngọc Hân đã khóc chồng bằng “Văn tế Quang Trung” và “Ai tư vãn”. Bà ở goá nuôi hai con nhỏ là Nguyễn Văn Ðức, Nguyễn Thị Ngọc và mất ngày 8 tháng 11 năm Kỷ Tỵ (4-12-1799) ở tuổi 29.
    Năm 1801, Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân, lùng bắt hai con bà đang chạy trốn và giết thảm thương.
    Năm 1804, thân mẫu Nguyễn Thị Huyền đã lặn lội vào tận Phú Xuân, tìm cách đưa hài cốt Ngọc Hân và hai cháu ngoại về an táng ở quê bà - làng Nành, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội), vào ngày 16-7-1804 tại bãi Cây Ðại đầu làng rồi lập miếu thờ.
    Ðến đời Thiệu Trị, vua coi việc lập miếu thờ vợ Quang Trung là một trọng tội nên đã lệnh cho quan quân địa phương khai quật mộ mẹ con Ngọc Hân và đổ hài cốt xuống sông Hồng thuộc địa phận làng Ái Mộ. Thương xót Bắc cung Hoàng hậu tài hoa bạc mệnh, nhân dân Ái Mộ lập miếu thờ bà chính nơi bờ sông vớt được hài cốt. Dòng sông bên lở, bên bồi… ngôi miếu nhỏ cũng bị lũ cuốn trôi…

    Di tích văn hoá


    Theo văn bia ở đền còn ghi, năm 1858, cụ Đặng Thị Bản trong vùng đứng ra quyên góp xây dựng ngôi đền kiên cố. Ðể bảo vệ đền, không cho quan quân nhà Nguyễn đập phá, nhân dân dùng hình thức “thờ các chư vị”, nhưng thực ra là thờ Ngọc Hân. Mẫu Liễu Hạnh, con gái Ngọc Hoàng và Mẫu Thượng ngàn, con gái thần núi Tản Viên cũng được rước về phối thờ. Năm 1872, đền lại bị giặc Pháp đốt phá trong cơn binh lửa đánh Thành Hà Nội. Dốc lòng với việc tín nghĩa, cụ Ðặng Thị Bản lại đi quyên góp xây lại đền. Sau đó, đền được xây lại khang trang hơn trước gồm bảy tòa lợp ngói và hai miếu thờ bà chúa Bé.
    Trải bao phen binh lửa, can qua, đền Ghềnh vẫn được con cháu cụ Ðặng Thị Bản trông nom và dân làng gìn giữ đến ngày nay.
    Trong hậu cung đền Ghềnh, vẫn lưu đôi câu đối ca ngợi Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân:
    “Núi Nhạc linh thiêng, gương bà họ Lê lưu truyền sử sách
    Sóng gió lặng yên, đền dựng lên to đẹp bên sông Hồng”.
    Giá trị văn hóa của đền Ghềnh còn được thể hiện ở những di vật, gồm có quả chuông đồng đúc năm 1876, hai cỗ kiệu lớn (một kiệu Long Đình và một kiệu Mẫu) được chạm trổ rất đẹp. Đặc biệt nội dung của các bức đại tự, hoành phi, câu đối đều ca ngợi cảnh đẹp, đất thiêng của Bồ Đề và công trạng, đức độ của vị thần được thờ ở ngôi đền này.

    Lễ hội thường niên


    Hằng năm, từ ngày mùng 6 đến ngày 12 tháng 8 âm lịch, đền Ghềnh mở lễ hội tưởng niệm Hoàng hậu Lê Ngọc Hân, thu hút rất đông nhân dân trong vùng và khách thập phương tham dự.
    Một trong những nghi lễ không thể thiếu của hội đền Ghềnh là lễ rước nước. Lễ rước nước không chỉ thể hiện mong muốn mùa màng bội thu mà còn có ý nghĩa như gột rửa nỗi đau, nỗi oan khiên cho Hoàng hậu Ngọc Hân cùng hai con của bà. Lễ vật dâng cúng có xâu bánh đa và chùm khế ngọt.
    Lễ hội còn có hát văn ca ngợi Thánh Mẫu, trong đó có lồng lời hát ca ngợi vua Quang Trung, anh hùng áo vải và nỗi lòng bi thương của công chúa Ngọc Hân dựa vào bài thơ “Ai tư vãn” bất hủ. Sau lễ tạ là các cuộc thi bơi chải, hát sa mạc, trống quân, cò lả…

    ---------- Post added at 04:00 PM ---------- Previous post was at 04:00 PM ----------

    [h=4]Đền Bố Cái Đại Vương
    [/h]




    Đền ở xã Đường Lâm, Sơn Tây, thành phố Hà Nội, thờ Phùng Hưng, người bản xã. Hiện tại chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng giữa thế kỷ 7-8. Ông có sức khoẻ và mưu trí, thường giúp dân nghèo. Hiện dân làng Đường Lâm vẫn truyền nhau câu chuyện Phùng Hưng tay không giết hổ.
    Khoảng năm 766, ông chiêu mộ quân lính nổi dậy khởi nghĩa chống quân Đường. Nhân dân hưởng ứng tôn ông làm Đô quân. Nghĩa quân chiếm được thành Tống Bình. Phùng Hưng vào phủ thành giữ quyền trị nước được 7 năm thì mất. Phùng An nối ngôi, tôn cha làm Bố Cái Đại Vương. Dân địa phương cảm mộ ơn đức dựng đền thờ gọi là Tây Cung. Đền đã được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hoá.




    ---------- Post added at 04:00 PM ---------- Previous post was at 04:00 PM ----------

    [h=4]Đền Nguyễn Trãi - Nhị Khê - Thường Tín - thành phố Hà Nội
    [/h]





    Vị trí



    Ngôi đền thờ vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi ở xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.



    Tiểu sử Nguyễn Trãi



    Ông sinh năm 1380, mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê góc ở Chí Linh, Hải Dương. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh từng về làng Nhị Khê để dạy học và sinh ra ông. Nguyễn Trãi đã sống ở làng này trước khi thi đỗ Thái học sinh do nhà Hồ tổ chức vào năm 1400.
    Khi quân Minh xâm lược nước ta, ông theo Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, được phong tước Hàn lâm Thừa chỉ. Ông nhiều lần thay mặt Lê Lợi thảo thư từ qua lại với quân tướng giặc Minh. Ông có công lao đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông được ban quốc tính, giữ chức Nhập nội Hành khiển kiêm Lại bộ Thượng thư, tước Quan Phục hầu. Nguyễn Trãi cùng gia đình bị kết tội tru di tam tộc năm 1442, sau vụ án Lệ Chi Viên.



    Lịch sử - Kiến trúc



    Đền thờ Nguyễn Trãi do dân làng lập nên để tưởng nhớ ông. Lúc đầu, đền chỉ là ngôi nhà thờ. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, khu tưởng niệm đã được tôn tạo mở rộng, có thêm nhà trưng bày về thân thế và sự nghiệp của ông và thư viện.
    Đền có bố cục khiểu chữ Nhị (二), nghệ thuật kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn vào thế kỷ XIX. Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi.
    Trước cửa đền là khu vực tượng đài Nguyễn Trãi dựng năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm sinh của ông. Tượng bằng xi măt thép, đứng trên bệ đá granit, do nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo sáng tác. Tượng thể hiện tư thế hiên ngang của người anh hùng dân tộc khăn đầu rìu đầu ngẩng cao, tay vung bút lông viết Bình Ngô đại cáo. Sau lưng tượng là luỹ tre làng. Đền được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá 01/1964.






    ---------- Post added at 04:01 PM ---------- Previous post was at 04:00 PM ----------

    [h=4]Đền Bộ Đầu
    [/h]




    Ngôi đền ở làng Bộ Đầu, xã Thống Nhất, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội, thờ Huyền Thiên Đại Thánh Thiên Vương.
    Tương truyền, có người đàn bà trong làng ra sông gánh nước, bị con thuồng luồng lôi tuột xuống sông, bà cất tiếng gọi con cứu. Bỗng thấy người con trai từ trên trời sà xuống tóm bắt con thuồng luồng cứu bà đem về đầu làng, rồi quay lại bờ sông giẫm đầu con thuồng luồng cho chết hẳn. Sau đó người con của bà cũng hoá luôn, để lại trên bờ sông một vết chân to lớn. Dân làng thấy sự việc linh thiêng bèn lập đền thờ cạnh chỗ đó, cho là chính Huyền Thiên Đại Thánh nhập thân vào người con trai giết thuồng luồng cứu mẹ.
    Sau Trịnh Tùng đem quân đánh nhà Mạc, khi thuyền qua sông đến đoạn này thì không tiến được, bèn lên bờ thắp hương cầu khấn, xin thần linh phù trợ, thắng trận trở về sẽ cho tu sửa miếu mạo. Sau khi dẹp xong nhà Mạc, Trịnh Tùng quên lời hứa trước nên bị Đại thánh báo mộng quở trách. Trịnh Tùng tỉnh dậy sai người tu sửa đền thờ, theo hình dạng người trong mộng tạc thành pho tượng Đại thánh bằng gỗ cao đến 21 thước ta, chân đạp lên đầu con thuồng luồng. Hằng năm, đến ngày hoá của Đại thánh (19 tháng Chín) dân làng mở hội tế, người xa gần đến dự rất đông. Ngày hôm đó, các trai đinh làng múa gậy chầu thần và chơi các trò vui có thưởng.




    ---------- Post added at 04:01 PM ---------- Previous post was at 04:01 PM ----------

    [h=4]Đền Phúc Thụy
    [/h]




    Ngôi đền của làng Phúc Thụy, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội, còn gọi là đền Chảy. Đền nằm trên bãi Gấu, tương truyền là nơi Thừa tướng Lữ Gia tử trận, bị chém rớt đầu tại đây.
    Đền được xây dựng vào thời Nguyễn, thờ thành hoàng là Lữ Gia, thừa tướng của nước Nam Việt, dưới thời nhà Triệu, trước Công nguyên. Ngôi đình hiện nay có bố cục kiểu chữ Công (工).
    Nhà đại bái, kiểu năm gian hai chái, bờ nóc chạm 2 rồng chầu mặt trời. Cuốn thư giữa đình sơn then nổi bật 3 chữ Minh Tại Thần, có niên hiệu Bảo Đại.
    Nhà ống muống, nối đại bái với hậu cung đặt 3 cỗ long ngai thờ 3 vị thần gọi là tam vị tướng quân phù trợ tướng Lữ Gia.
    Hậu cung là 3 gian kiến trúc kiểu hai mái, đầu hồi bít đốc kín, trên có đấu đẳng, các vì kèo bào trơn đóng bén. Cung là nơi thâm nghiêm đặt bài vị thờ tướng Lữ Gia, với hàng chữ Hán: 忠賢貴顯大王 - Trung Hiền Quý Hiển Đại Vương. Phía trước bài vị, là hòm sắt sơn son thếp vàng, chạm hoa chanh và rồng, đuôi gà chầu mặt nguyệt, trong đựng sắc phong các triều đại và bài văn tế vị thần.
    Đại đình, gồm 5 gian dài với 4 vì kèo, kiểu 4 mái, 2 đầu hồi là 2 mái phụ, máng đỡ hiên cong hình thuyền, tạo ra 4 góc đình mái cong nét đao, giữ kiểu dáng ngôi đình thời Lê cũ. Các vĩ kèo ở gian đại đình kết cấu giá chiêng chồng rường và vì kèo nào cũng có 2 đầu dư chạm rồng. Các bức cốn giữa mái ở các vì kèo, đều được chạm trổ công phu đề tài tứ linh, tứ quý. Các vì kèo được chạm hình dây leo, lá lật, các đấu kê, con nhị cũng được chạm trổ. Đặc biệt, đình còn lưu giữ được cửa võng chạm trổ sơn thếp công phu từ thời Lê.
    Hội đền diễn ra vào ngày 14 tháng Giêng hàng năm. Cứ đến ngày này, cư dân cả xã từ khắp nơi kéo về lễ hội thăm viếng mồ mả tô tiên đông đảo, tấp nập.




    ---------- Post added at 04:02 PM ---------- Previous post was at 04:01 PM ----------

    [h=4]Đền Ông Cai
    [/h]




    Đền ở làng Thượng Thanh, xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. Đình thờ ông Cai Ông, một vị tướng giỏi của Hai Bà Trưng. Lễ hội mở từ 10-12 tháng Hai Âm lịch. Đặc điểm lễ hội là Cai Công đóng giả nữ tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Cai Công không cho thịt trâu bò cúng, sinh lệ cúng cỗ chay. Ngày nay dịp hội làng có diễn lại cảnh trai đóng giả gái để tưởng nhớ đến ông.




    ---------- Post added at 04:02 PM ---------- Previous post was at 04:02 PM ----------

    [h=4]Đền Phùng Khắc Khoan
    [/h]





    Vị trí



    Khu di tích, bao gồm đền và lăng Phùng Khắc Khoan, thuộc thôn Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.



    Tiểu sử Phùng Khắc Khoan



    Phùng Khắc Khoan, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Mậu Tý (1528), mất ngày 24 tháng Chín năm Quý Sửu (1613), thọ 86 tuổi. Sau khi mất, được tặng hàm Thái phó, vua sai lập đền thờ, sắc phong Thượng đẳng phúc thần. Người đời thường gọi ông là trạng Bùng.
    Phùng Khắc Khoan lúc trẻ nổi tiếng văn học, đỗ Hoàng giáp năm 1580. Ông từng vâng mệnh lên cửa Nam Quan hội khám với sứ thần nhà Minh (1596) và làm chánh sứ sang Yên Kinh (1597). Sau khi đi sứ về, được thăng Tả thị lang bộ Lại, tước Mai lĩnh hầu, sau được thăng Thượng thư bộ Công, rồi bộ Hộ, tức Mai quận công.
    Tương truyền, Phùng Khắc Khoan, đã đem hạt ngô giống, đỗ tương của Trung Quốc về cho dân địa phương. Ông cũng là người xây dựng hệ thống mương máng thuỷ lợi, lấy nước từ núi Sài Sơn về tưới cho cánh đồng Phùng Xá. Ông còn truyền cho dân nghề rèn, nghề dệt chồi (một loại vải dệt bằng sợi tơ gốc) nổi tiếng: “The La, lĩnh Bưởi, chồi Phùng”.



    Kiến trúc



    Đền còn khá nguyên vẹn, cách đền khoảng 100m là lăng mộ, vẫn còn nguyên hình dáng cổ xưa. Đền làm lại vào thế kỷ XIX, vốn là nhà thờ họ Phùng Khắc Khoan, gồm 2 toà xây kiểu chữ Nhị (二), quay hướng Đông, xung quanh có tường bao bọc. Nhà thờ đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá năm 1992.






    ---------- Post added at 04:02 PM ---------- Previous post was at 04:02 PM ----------

    [h=4]Đền Đào Quang Nhiêu
    [/h]




    Ngôi đền ở xã Dân Hoà, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.
    Đình thờ Đào Quang Nhiêu (1601-1672). Ông là võ tướng thân tín của chúa Trịnh Tạc từng làm trấn thủ Nghệ An, trực tiếp cầm quân nhà Trịnh chống nhau nhiều trận với quân đội chúa Nguyễn do Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật chỉ huy. Năm 1672 ông mất, thọ 71 tuổi, được truy tặng tước Thái tể, thụy là Trung Cần và gia phong phúc thần.
    Từ năm 25 tuổi đến năm 62 tuổi, ông đã từng đánh dẹp họ Mạc ở Thất Khê (Lạng Sơn), dẹp cuộc nổi loạn của phe phái ly khai ở Thanh Liêm (Hà Nam), tuần thú, bình định trấn Sơn Nam, tham gia chinh phạt họ Nguyễn ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Đáng kể là trong năm năm (1655-1660), ông đã lăn lộn ở chiến trường phía nam, lúc ở Nam Đàn, khi ở Thạch Hà, lúc ở Thanh Chương, ngăn chặn không cho chúa Nguyễn đánh lấn ra bắc sông Lam... Sau những lần dẹp phản loạn, trấn giữ biên giới phía nam (thời Trịnh – Nguyễn phân tranh), lập được nhiều công lớn, năm 1661, ông Đào Quang Nhiêu được cử giữ chức Trấn thủ Nghệ An, kiêm giữ châu Bố Chính Quảng Bình. Theo tài liệu chính sử, nhà vua đã xét công trạng và thăng chức cho Đào Quang Nhiêu: năm 1645 đô đốc, tước quận công; năm 1652 Nam quận đô đốc; năm 1657 thiếu phó; năm 1659 phó tướng thiếu úy.
    Không những có công với nước, Đào Quang Nhiêu còn gắn bó với quê hương bản quán và dòng họ. Ông đã mua 71 mẫu ruộng chia về các tổng, xã, thôn của huyện Thanh Oai để dân cày cấy gọi là “huệ điền”, mua mảnh đất một mẫu năm sào để lập chợ phiên cho dân làng. Ông được triều đình nể trọng và dân làng kính yêu, tôn vinh làm phúc thần của địa phương sau khi ông mất.
    Do những công lao với nước, với dân, khi tướng công Đào Quang Nhiêu qua đời năm 1672 tại dinh trấn thủ Nghệ An, vua Lê cho 10 thuyền rồng rước linh cữu về quê nhà, tổ chức lễ tang theo nghi thức đại tễ, cho quan quân về lập đền thờ nguy nga, tạc tượng oai nghiêm và cắt riêng một khu đất cho con cháu thờ phụng.
    Đền thờ ông hiện giờ chỉ rộng 1600 m2 gồm nhà tiền tế và hậu cung, lưu giữ được nhiều di vật quý như bộ long ngai, bài vị thế kỷ XVII, lọ sứ men lam, bát hương gốm Thổ Hà, chân nến đồng... Nổi bật có hai tượng phỗng gỗ cao 103 cm ở tư thế quỳ, phong thái khoáng đạt, tay cầm thẻ bài, có phong cách điêu khắc khác lạ, độc đáo. Hậu cung có bốn chấp kích. Đặc biệt khi đến thăm đền, mọi người đều chú ý tới tượng con trâu “buồn” và con hạc “rũ”. Đó là hai di vật được tạc bằng đá khối màu xanh sẫm. Trâu buồn là pho tượng thể hiện một con trâu tơ tạc bằng 1 tượng đá xanh liền khối ở tư thế nằm buồn, nhưng lại nổi lên rất rõ gờ sống lưng hằn từng vết đốt xương. Trâu nằm nghiêng, mắt nhắm và miệng thì nín lặng, lịm dần cho đến khi hồn lìa khỏi xác lúc nào cũng không biết. Hạc rủ lại là một khối đá đứng tạo hình con hạc đủ cả chân cao với từng chiếc vảy và 5 ngón chân gầy guộc. Con hạc dúi cái mỏ dài ngoẵng của mình vào một bên cánh và ủ rủ cho đến chết lúc nào cũng không biết.
    Đền thờ ông còn có ba tấm bia, trong đó có tấm bia “huệ điền”, cao 188 cm, rộng 137 cm, dầy 21,5 cm, khắc chữ ở cả hai mặt, được trang trí đẹp. Bia làm vào năm 1665, nội dung ca ngợi chiến công đánh đông dẹp bắc của ông dưới triều đình Lê – Trịnh. Một tấm bia khác làm năm 1699, ghi lại việc ông lập chờ Tam Bảo, mở mang buôn bán hàng hóa ở vùng Toàn Cam. Trải qua mấy trăm năm, đến nay đền thờ Đào Quang Nhiêu không còn giữ được vẻ lộng lẫy, đồ sộ như ban đầu, song với những giá trị về nghệ thuật, kiến trúc, điều khắc vẫn xứng đáng được Bộ VHTT xếp hạng di tích lịch sử- văn hóa quốc gia vào năm 2000.
    Con trai ông là Đào Quang Quyền cũng là bậc danh tướng. Một người con trai khác là Đào Quang Huy, cũng được hưởng tập ấm của cha, bị chúa Trịnh Tạc kết tội, bắt cả nhà phải tự chết vào tháng 9/1673.
    Ngôi đền hiện nay chỉ còn phần hậu cung với hai phỗng Chăm thời Hậu Lê, một bát hương sành Thổ Hà, một bia chữ nhật niên đại Cảnh Hưng 43 (1843) và một bia trụ vuông ở phía cổng làng.




    ---------- Post added at 04:03 PM ---------- Previous post was at 04:02 PM ----------

    [h=4]Đền Phấn Hạ
    [/h]




    Đền ở làng Phấn Hạ, xã Phụng Thượng, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây cũ, nay là thành phố Hà Nội. Đền do chúa Trịnh Tùng cho xây dựng, thờ các tướng sĩ có công đánh dẹp quân của họ Mạc trong cuộc chiến giữa quân nhà Lê Trung Hưng và nhà Mạc vào năm 1651. Về sau, đền còn phối thờ các công thần triều Lê.


    [h=4]Đền Khánh Xuân[/h]





    Truyền thuyết



    Ngôi đền ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, còn gọi là cung Xuân Ca, thờ thần núi Tản Viên.
    Truyền thuyết kể rằng, vào một mùa xuân, Đức Thánh Tản Viên đi du ngoạn ven sông Tích, ngài chợt thấy một vùng ruộng đất phì nhiêu nhưng dân cư lại thưa thớt nên đã dừng lại. Đó chính là xứ Lạp Hạ (nay là xã Liệp Tuyết). Thấy cuộc sống của dân làng khốn khó, đói khổ, ngài liền chọn những hạt thóc to cho dân và dạy họ cách trồng trọt, cày cấy. Ngài còn gọi các nam thanh nữ tú đến để dạy múa hát. Sau đó, Đức Thánh Tản Viên ra đi và hẹn mùa lúa chín sẽ quay về.
    Năm đó, dân làng Lạp Hạ có một vụ mùa bội thu chưa từng có, thóc lúa chất đầy nhà, ai cũng ấm no, sung túc. Nhưng đợi mãi, đợi mãi, dân làng không thấy bóng dáng của ân nhân quay lại như đã dặn trước lúc người ra đi. Năm này qua năm khác, dân xứ Lạp Hạ nhờ được Đức Thánh dạy cách trồng trọt mà cuộc sống ngày càng no ấm. Họ bèn lập đền thờ Đức Thánh ngay tại nơi ngài đã dừng chân và mở lễ hội để hát múa những làn điệu ngài đã dạy. Đó chính là đền Khánh Xuân. Năm tháng trôi đi, đúng 36 năm sau, Đức Thánh Tản Viên mới quay trở lại làng Lạp Hạ. Vì thế, lễ hội hát Dô cứ định kỳ 36 năm mới tổ chức một lần.



    Lễ hội



    Theo truyền thống cứ 36 năm một lần, dân làng mở hội lễ hát dô tại khu vực đền Khánh Xuân. Hát dô là gọi tắt của điệu hát huầy dô (hay dô huầy), có khi đọc chệch thành ra hát rô. Hội mở từ ngày mồng 10 đến 15 tháng Giêng âm lịch. Mỗi phường hát đại diện cho một thôn, có cái hát là một nam thanh niên, giữ vai lĩnh xướng và khoảng từ 8–12 con hát hay gọi là bạn nàng, đều là con gái.
    Cái hát ăn mặc lễ phục: đội khăn xếp màu đen hoặc chít khăn đen hình trụ, mặc áo the thâm hay lụa thanh thiên, quần vải chúc bâu hay lụa trắng, chân đi giày hay guốc mây, tay cầm sênh để điều khiển nhịp hát. Các con hát vận áo mớ ba mớ năm, váy thâm, chân đi dép cong, tay cầm quạt khách, đặc biệt ở ngón tay đeo nhẫn bên trái bao giờ cũng đeo một cái túi bằng múi cam, thêu màu sắc sặc sỡ.
    Các động tác múa hát của hội khá đơn giản: cái hát chỉ gõ sênh giữ nhịp, các con hát vừa múa quạt như các diễn viên hát chèo. Làn điệu của hát theo lối kể chuyện và ngâm thơ, có ít nhiều cách điệu. Lời bài hát theo lối văn tương đối cổ xưa, nhiều từ đến nay không còn thông dụng với nội dung 4 phần: những lời chúc tụng, phong cảnh bốn mùa, hái hoa dệt lụa, chèo thuyền đánh cá và cuối cùng là lời chúc tụng giã từ. Trong 5 ngày hội thì 3 ngày cho hát dô, 2 ngày còn lại dành cho kéo co, đấu vật, đánh cờ người… Sau 5 ngày hội chính, nhân dân còn kéo dài thời gian vui thêm vài 3 ngày nữa để được hát tự do, không theo nghi thức truyền thống. Đó là hát bỏ bộ tổ chức ở 2 thôn Bái Nội và Bái Ngoại. Nội dung hát bỏ bộ vui tươi, mang đậm dấu ấn của đời thường.




     
  4. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền Trong
    [/h]




    Ngôi đền còn có tên là Quán Trong, thuộc thôn Hiệp Thuận, xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Đền thờ ông Minh Ứng Dựng Quốc Đại vương, là người đã có công đánh giặc giữ nước thời Thục An Dương Vương.
    Đền mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Trước sân đền có 3 cây bàng cổ thụ làm tăng thêm vẻ thanh u, cổ kính. Đền quay hướng chính Nam, bố cục chữ Đinh (丁), gồm tiền tế và hậu cung. Hàng năm, xuân thu nhị kỳ, dân làng tổ chức đình đám hội hè vui vẻ làm cho tình cảm của bà con trong làng xã thêm gắn bó.


    [h=4]Đền Hát Môn[/h]




    Đền ở xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, là 1 trong 3 ngôi đền thờ Hai Bà Trưng lớn nhất và lâu đời nhất ở nước ta. Nguyên xưa, ngôi đền nằm trên bờ cửa sông Hát (một đoạn của sông Đáy), ngày nay, vì sông đổi dòng, nên đền đã ở sâu vào đất liền. Tương truyền, đây là nơi Hai Bà Trưng lập đàn và mở hội thề năm 40 sau công nguyên, trước khi xuất quân đánh quân xâm lược Đông Hán. Hai bà đã đánh đuổi Tô Định chạy về nước. Sau khi chiếm được các thành trì ở Lĩnh Nam, bà bèn tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh, Vĩnh Phúc. Hai năm sau, nhà Hán sai Mã Viện sang đánh, quân Hai Bà phải rút về giữ Cấm Khê, Trưng Vương tự vẫn ở sông Hát, về sau xã Hát Môn lập đền thờ.
    Trước khi vào thăm đền, du khách sẽ gặp miếu "Bà Hàng nước" thờ người phụ nữ đã khuyên hai Bà tự vẫn để giữ trọn khí tiết. Tiếp đến, ta sẽ gặp hai trụ đồng rất cao, được coi là cổng đền. Từ cổng đền đi xuống khoảng 200m là cửa Tam quan. Qua một sân rồng với những phiến đá xanh chạm khắc từ thời Lê là đến đền. Đền được xây dựng trên một gò đất cao, với bố cục theo kiểu tiền tế chữ Nhất (一).
    Trong đền, bày nhiều đồ thờ cúng cùng hoành phi, câu đối, nói lên khí phách, tinh thần quật khởi và công đức của hai Bà, đối với non sông xã tắc. Chính giữa đền, có treo bức đại tự "樂雄正統 - Lạc Hùng chính thống". Phía Hậu cung có đặt hai long ngai bài vị của hai Bà. Ngoài ra, trong đền, hiện còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật giá trị như: kim tự khí, hương án, bài vị... mang đậm nghệ thuật Chạm khắc thời Lê. Phía sau đền có một gò gọi là gò ngọc ấn, nơi khi xưa nghĩa quân hai Bà chôn giấu các ấn tín và ngọc ấn. Đền đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia năm 1991.
    Lễ hội chính vào ngày mồng 6 tháng Ba, mồng 4 tháng Chín và 24 tháng Chạp âm lịch. Hội lễ ngày mồng 6 tháng Ba, ngày hoá của Hai Bà Trưng là hội lễ chính hằng năm. Trong ngày hội, dân làng cúng Hai Bà những mâm đầy các đĩa bánh trôi. Theo truyền thuyết tại Hát Môn thì khi bị vây hãm, Hai Bà Trưng đã phi ngựa qua vùng căn cứ cũ, nhân lúc đói, Hai Bà ghé vào quán hàng bánh của một bà già ăn đĩa bánh trôi và 2 quả muỗm. Bánh trôi dâng phải có đủ 100 viên rất nhỏ, sau khi tế lễ xong, làng đem 49 viên đặt vào lòng một bông hoa sen thả xuống dòng sông để trôi về biển cả. Đặc biệt, dân làng Hát Môn không làm và không ăn bánh trôi trước ngày 6 tháng Ba.
    Hội lễ ngày 4 tháng Chín, tương truyền là ngày Hai Bà Trưng làm lễ xuất quân. Trong ngày hội có diễn múa cờ với sự tham gia của trai đinh trong làng, có đông đảo du khách trẩy hội. Hội lễ ngày 24 tháng Chạp, được tổ chức rất trang nghiêm. Đó là lể mộc dục (tắm tượng). Để chuẩn bị cho lễ mộc dục, làng Hát Môn chọn 20 tráng đinh, vào nửa đêm ngày 23 sang ngày 24 rước tượng Hai Bà từ trong hậu cung ra nhà Dội (nhà tắm tượng). Cùng lúc đó, dân chài Hát Môn, cũng gọi là vạn Hát, sắm sửa thuyền chở lọ (hoặc bình, ang, hũ) đựng nước ra giữa sông Hồng lấy nước về nhà Dội để làm lễ. Gọi là tắm tượng nhưng người ta chỉ lau phủ bụi bặm trên tượng, rồi dùng khăn nhúng nước (có khi pha hương hoa lá thơm) để lau lần nữa. Sau cùng, rước tượng về bày thờ ở hậu cung.




    ---------- Post added at 04:04 PM ---------- Previous post was at 04:03 PM ----------

    [h=4]Đền Vân Môn
    [/h]





    Vị trí - Lịch sử



    Đền Vân Môn ở làng Vân Môn, xã Trung Châu, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, thờ Hai Bà Trưng. Vốn xưa dân 2 làng Hát Môn và Vân Môn là một. Trải qua biến thiên của lịch sử, dòng Hát Giang xưa chia Hát Môn thành 2 làng: bên kia là làng Hát Môn, thuộc huyện Phúc Thọ, bên này, làng Vân Môn, thuộc huyện Đan Phượng. Nhân dân xây đền, xin duệ hiệu thành hoàng của làng gốc là Hai Bà Trưng về thờ. Hội làng chính cùng mở vào ngày 6 tháng Ba âm lịch. Một số họ tộc của 2 làng vẫn còn gắn bó mật thiết với nhau đến tận ngày nay.
    Từ một xóm tách thành làng dân cư còn ít, ngôi đền khởi dựng còn bé nhỏ bằng tranh tre nứa lá. Đến năm Canh Ngọ (1870), ngôi đền được đặt ở vị trí hiện nay. Đây là khu đất cao đầu làng Vân Môn có ngôi đền thờ, xung quanh nhiều cây cổ thụ, cây ăn quả lâu năm. Đền thờ Hai Bà dựng theo hướng Đông – Nam, phía trước là các thửa đất rộng phù xa màu mỡ, phía trên con đê ngăn lũ. Phía sau là đồng bãi trải dài xuống dòng sông Hồng quanh năm nước đỏ mang nặng phù xa tưới cho đồng bằng Bắc Bộ.



    Kiến trúc



    Đền Vân Môn được xây theo lối hành cung. Nhìn tổng thể, mặt bằng cấu trúc khu đền có cổng Nghi môn, nhà Đại bái, Hậu cung và hai dãy nhà Tả Hữu mạc.
    Cổng đền làm theo kiểu nghi môn, là công trình kiến trúc được xây đắp bằng gạch ngói vôi vữa và xi măng, gồm một cửa chính, hai cửa phụ. Phần trên là bốn mái đao cong, trên bờ nóc có mặt trời tròn nhiều tia mác, hai bên có hai khối tượng rồng tròn. Dưới mái là phần cổ rỗng có đắp hoành phi ghi dòng chữ: Đền Trưng Vương. Những mái lá cổng cong đắp đầu rồng hoa lá, lan xuống cổng phụ là dải hoa văn chữ triện. Hai cổng phụ uốn vòm mái cua, có mái ngói ống. Hai bên là cột trụ đèn lồng.
    Nhà Đại bái là công trình kiến trúc chính xây tường gạch bao quanh, hai hồi bít đốc. Bờ nóc đắp đinh đấu kìm vuông. Giữa nóc là vòng tròn lớn biểu tượng mặt trời với những tia lửa. Hai bên là đôi rồng to khối tròn tương đối đồ sộ. Tác phẩm nghệ thuật này hòa đồng với mái ngói ri màu sẫm nâu và cột trụ trước hiên, tạo nên không gian kiến trúc cổ kính, trang nghiêm của công trình văn hóa truyền thống.
    Phía trước là cửa ra vào, hai gian bên cửa sổ trang trí hoa văn chữ thọ. Hai mảng tường phía trước đắp phù điêu bên tả voi chiến, hữu là ngựa chiến, sự liên tưởng thời đó đã giúp Hai Bà ra trận đánh giặc.
    Ngôi nhà hình chữ nhật chiều dài 12,7m, chiều rộng 6,3m, gồm năm gian, mái lợp ngói mũi mỏng. Kiến trúc khung nhà có hai hàng gỗ tròn, xà ngang, xà dọc và sáu bộ vì, trong đó hai bộ vì ốp tường hồi làm theo hình thức kẻ chuyền. Bốn bộ vì chính làm theo kiểu chồng rường con nhị. Trên các lớp kiến trúc trang trí hoa văn cánh sen, soi vỏ măng, gờ chỉ lá lật.
    Hậu cung đền là ngôi nhà dọc đấu chữ đinh vào gian giữa Đại bái. Nhà gồm ba gian có Trung cung và Hậu cung. Những bộ vì thống nhất theo kiểu: chồng rường mê cốn. Có 4 cốn nhỏ đục chạm kênh bong vân mây, hoa văn thực vật. Nổi bật là bức cốn “Long cuốn thủy”, với nhiều chi tiết như hoa sen trên đầm nước, mây trời, cá nước, rùa vàng… Những nét đục chạm vụng về, mộc mạc của người thợ vùng bãi sông Hồng.
    Trong Hậu cung có khám thờ, cửa làm kiểu bức bàn trơn. Hai cỗ ngai và bài vị thờ Hai Bà Trưng đặt trang trọng trong khám là các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ đẹp. Đầu tay ngai trang trí nhiều lớp sen viền, cúc bốn cánh, rồng lá, hổ phù và các chỉ khắc vạch, sóng nước… Bài vị đặt trong long ngai tạo hình nhân mặt tròn hình tai Phật, thân dọc viền các lớp hoa văn cúc, sen, sóng nước và giữa là dòng chữ ghi thành hiệu, mỹ tự ca ngợi công lao, đức độ của Hai Bà Trưng.
    Đền đã được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hoá cấp quốc gia.






    ---------- Post added at 04:04 PM ---------- Previous post was at 04:04 PM ----------

    [h=4]Đền Cổ Ngõa
    [/h]





    Vị trí



    Đền Cổ Ngoã toạ lạc tại xã Phương Đình, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
    Đền thờ Hải Diệu, một vị tướng của Hai Bà Trưng. Ngoài ra còn thờ 1 vị quận công có tên là Lê Bình, người có công giúp nhà Lê đắp con đê ngăn nước lụt từ Thượng Mỗ đến Đoàn Khê vào thời Hồng Đức (1470-1497). Cạnh đền là ngôi miếu nhỏ thờ bà Lê Thị Hạnh, thân mẫu của tướng quân Hải Diệu.
    Khu vực đền miếu hiện nay là nơi mẹ con tướng quân Hải Diệu đã sống trước khi ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Cuộc chiến đấu với quân Mã Viện bị thất bại, ông và Hai Bà Trưng cùng tự vẫn trên dòng sông Hát để tỏ rõ khí tiết và tinh thần bất khuất của mình.



    Kiến trúc



    Đền quay về hướng Đông Nam, kiến trúc chữ Đinh (丁), gồm nhà Tiền tế 5 gian và nhà Hậu cung 4 gian.
    Tường nhà Tiền tế xây gạch, mái ngói, bộ phận vì nóc theo kiểu giá chiêng kê đấu. Nền hai gian bên cạnh được xây cao hơn gian giữa, dùng làm chỗ ngồi cho các kỳ mục chức sắc trong các kỳ hội họp hoặc tế lễ.
    Tại nhà Tiền tế đặt một cỗ kiệu đẹp ngay gian giữa với 8 đòn chạm rồng, tượng trưng cho uy quyền. Toàn bộ kiệu là một tác phẩm chạm khắc có giá trị nghệ thuật, thuộc thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
    Giữa nhà Tiền tế và Hậu cung là một khoảng sân nhỏ. Đi khỏi sân là đến hàng hiên, tại đây bày một nhang án kiểu chân quỳ dạ cá, chạm khắc khá tinh xảo. Hậu cung có cấu trúc cùng loại với nhà Tiền tế, vẫn nối với vì kèo giá chiêng kê đấu, bít đốc.
    Trong Hậu cung đặt một khám thờ khá lớn, cao 1,8m, rộng 1,3m, lòng sâu 1,2m. Trong khám đặt ngai thờ thành hoàng cao 1,2m rộng 0,75m. Tay ngai nhìn đầu rồng quay ra phía trước, đế ngai chạm hổ phù. Bên dưới ngai là sập thờ quận công Lê Bình. Trong đền còn có cỗ kiệu bát cống khá đẹp trang trí hổ phù hình rồng, hình phượng.
    Trong đền còn giữ được 6 đạo sắc phong từ đời Cảnh Hưng đến đời Khải Định, 2 bức hoành phi, 2 câu đối, 1 bản thần phả. Tất cả đều ca ngợi công tích của đức thành hoàng bản thổ. Trong đó có câu đối viết:
    Công hiển Trưng triều truyền Bắc sử
    Danh mưu cổ miếu hách Tây thiên
    Dịch nghĩa:
    Công rạng triều Trưng truyền sử Bắc
    Tiếng lưu cổ miếu vọng trời Tây.
    Thần phả ghi rõ, đức bản thổ thành hoàng hiệu là Hải Diệu vốn là người phủ Hà Trung, đạo Thanh Hoa, cha ngài là tri huyện Nguyễn Công Ánh. Bấy giờ tri huyện bị thái thú Tô Định giết hại, nên con trai là Hải Diệu đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng để trả thù nhà đền nợ nước. Sau khi Ngài mất, dân thôn Cổ Ngoã lập miếu thờ phụng, hương hoả muôn đời không dứt. Cạnh đền Cổ Ngõa, dân thôn còn dựng một ngôi miếu thờ nhỏ thờ bà Lê Thị Hạnh – thân mẫu của đức Thánh. Tượng bà đặt trong chiếc khám lớn được khắc chạm đẹp và tinh tế, mang đậm nét nghệ thuật đầu thế kỷ XIX. Tượng được tạc trong tư thế ngồi với chân trái hơi ghếch lên trên chiếc gối, để lộ bàn chân, tay phải để lên lòng đùi phải, tay trái thu vào trước ngực, khuôn mặt trái xoan, mắt nhìn thẳng hiền hậu, mũi thẳng, miệng tươi, trông rất sống động. Pho tượng là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, đạt giá trị thẩm mỹ cao, phản ánh trình độ tạc tượng của nghệ nhân đương thời.


    ---------- Post added at 04:05 PM ---------- Previous post was at 04:04 PM ----------

    [h=4]Đền Bà Sa Lãng
    [/h]




    Đền Bà Sa Lãng hiện toạ lạc ở xã Liên Hà, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Đền thờ Lữ Gia, Tể tướng đời thứ ba của nhà Triệu, nước Nam Việt. Theo thần tích, thuở nhỏ ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, tuấn tú thông minh, có chí khí anh hùng. Ông thi đỗ cả văn lẫn võ, được thăng quan đến chức Thừa tướng, là người nắm quyền trong chính trường nước Nam Việt những năm cuối trước khi bị nhà Hán xâm lược.
    Hàng năm, vào ngày 2 tháng Hai, dân làng Liên Hà tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày sinh của ông.
    Đền đã được xếp hạng Di tích Kiến trúc - Nghệ thuật ngày 27/12/1990.


    ---------- Post added at 04:05 PM ---------- Previous post was at 04:05 PM ----------

    [h=4]Đền Thịnh Thôn
    [/h]





    Vị trí



    Đền thờ bà Man Thiện, thân mẫu của Hai Bà Trưng. Bà là người có sắc đẹp lại tinh thông võ nghệ, là vợ của Giao Châu Hùng tướng quân, cháu ngoại họ Hùng, quê ở Phong Châu, Mê Linh. Nghe tin hai con gái hy sinh trong trận chiến đấu với quân Mã Viện, bà thu thập quân mã lên đường quyết sống chết với giặc, nhưng không chống lại được chúng, bà gieo mình xuống sông tuẫn tiết. Hôm ấy là ngày 10 tháng Chạp. Xác bà trôi về bên Nam Nguyễn, doanh trại của bà. Dân địa phương vớt xác đem về chôn ở xứ đồng Mả Dạ. Sau khi bà mất, dân làng đã lập đền và miếu để thờ.



    Kiến trúc



    Khu di tích hiện nay gồm có: miếu Mèn, đền Thịnh Thôn và gò Mả Dạ. Đền Thịnh Thôn nhìn về hướng Nam. Đứng ở cửa đền nhìn thấy rõ miếu Mèn và cánh đồng Mả Dạ.
    Đền thờ bà Man Thiện thuộc thôn Thịnh Bài, xã Cam Thượng, huyện Ba Vì. Đền được xây dựng ở phía Nam làng Thịnh, hướng Nam, gồm nhà tiền tế và đại bái, kết cấu kiểu chữ đinh.
    Tiền tế gồm 3 gian, xây tường hồi bít đốc, các bộ vì có kết cấu kiểu kẻ chuyền giá chiêng trên 4 hàng cột. Phía trước và sau nhà để trống thoáng. Trên các đầu dư, các đầu kẻ, thân kẻ chạm các hoa văn lá lật, đốt trúc đơn giản.
    Qua một sân gạch tới đền chính dựng trên nền cao tam cấp. Đại bái đền gồm 3 gian 2 chái, 4 góc làm đao cong, xây kiểu tường hồi bít đốc tay ngai, có bộ vì kiểu chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ và bẩy hiên. Mái lợp ngói ri mũi mỏng. Trên các bờ nóc, bờ giải là khối tượng kìm, nghê, rồng… được đắp công phu. Bộ khung nhà bằng gỗ tứ thiết chủ yếu bào trơn đóng bén, thiên về sự bền chắc.
    Hậu cung nối liền với Đại bái ở gian giữa thành chuôi vồ. Ngăn giữa Đại bái và Hậu cung là hệ thống cửa bức bàn và ván bưng kín. Trên ván bưng chạm nổi hai chim phượng đăng đối chầu vào cung.
    Trong đền còn bảo tồn tượng di vật phong phú như long ngai, bài vị trong khám thờ, các hoành phi, câu đối, bát bửu, quán tẩy và nhiều đồ thờ khác… là những chứng tích văn hoá lịch sử quý giá.






    ---------- Post added at 04:05 PM ---------- Previous post was at 04:05 PM ----------

    [h=4]Đền Tản Viên
    [/h]




    Đền thờ thần núi Tản Viên. Đền trên núi Tản Viên ở xã Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
    Về vị thần được thờ ở đền được gọi là thần Tản Viên hay là Tản Viên sơn thánh. Ông tên thật là Nguyễn Tuấn (còn gọi là Tùng), trong truyền thuyết là Sơn Tinh, lấy công chúa Ngọc Hoa, có công đánh dẹp vua Thục. Đời sau gọi thần núi Tản Viên là vị tổ của bách thần nước ta.
    Nay ở núi Tản Viên có 3 ngôi đền. Đền Thượng ở trên đỉnh núi là đền chính, thờ Tản Viên Sơn Thánh, khởi dựng từ thời Bắc thuộc, trùng tu năm 860, xây dựng lại năm 1073. Đền Trung ở sườn núi, xây từ thời Lý; Tổng đốc Nguyễn Văn Giai trùng tu thời Minh Mạng. Ngoài Tản Viên đền này còn thờ 2 vị thần khác là Cao Sơn và Quý Minh. Đền Hạ dưới chân núi cũng thờ Tản Viên.
    Vừa qua, đền Tản Viên đã được công nhận là di tích Lịch sử Văn hoá cấp quốc gia cụm di tích Đền Thượng, Đền Trung và Đền Hạ - nơi thờ phụng Tam Vị Tản Viên Sơn Thánh huyền thoại.
    Ba đền thờ này đều thuộc loại hình di tích kiến trúc tín ngưỡng dân gian. Đền Thượng nằm trong khu vực Vườn quốc gia Ba Vì, có lối kiến trúc độc đáo gồm 3 gian, 2 chái. Điều đặc biệt là một nửa mái sau đền hoàn toàn là vách đá. Đền Trung ở lưng chừng núi Ba Vì về phía Tây và đền Hạ nằm ven bờ sông Đà, gồm 3 dãy nhà ngang xếp theo hình chữ Tam.




    ---------- Post added at 04:06 PM ---------- Previous post was at 04:05 PM ----------

    [h=4]Đền Trúc Lâm
    [/h]





    Vị trí



    Ngôi đền ở thôn Đồng Bảng, xã Đồng Thái, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, thường gọi là đền Đồng Bảng.



    Đối tượng suy tôn



    Đền thờ Phùng Lộc Hộ. Ông là danh tướng thời Trần, có công dẹp giặc Mông Nguyên, vào thế kỷ XIII. Theo cuốn thần phả hiện còn và truyền thuyết dân gian địa phương, Phùng Lộc Hộ là con của tiên nương Phùng Thị Dung. Trong một lần đi kiếm củi trong rừng, bỗng có đám mây che rợp, tiếng hổ thét gầm dữ dội, bà hoảng sợ chạy về nhà. Sau 14 tháng, bà sinh được một cậu bé thông minh sáng sủa, đặt tên con là Lân Hổ, lớn lên thành một thanh niên có sức mạnh phi thường.
    Tháng 10/1257, đời nhà Trần, có giặc Mông Cổ đến xâm lược nước ta. Vua Trần kêu gọi trai tráng hãy giết giặc cứu nước. Phùng Lân Hổ xin ra giúp vua Trần đuổi giặc. Đất nước trở lại bình yên. Nhờ có công đánh giặc, vua Trần phong cho ông tước Lân Hổ hầu và 8 chữ “南 方 壯 气, 北 看 寒 心 - Nam phương tráng khí, Bắc khán hàn tâm” (khí mạnh phương Nam, rùng mình giặc Bắc). Vào giờ Ngọ ngày 10 tháng Chạp năm ấy, ông mất. Nhà vua cho xây lăng mộ tại nơi ông đóng đô. Tại nơi ông sinh là thôn Đồng Bảng, nhà vua cho xây đền thờ. Hàng năm vào ngày 10 tháng Giêng âm lịch, dân làng Đồng Bảng làm lễ dâng hương để tưởng nhớ công lao của ông.



    Kiến trúc



    Đền có quy mô không lớn, nhưng kiến trúc nghệ thuật rất độc đáo. Các bộ phận kiến trúc gỗ của đền được chạm khắc khá tỉ mỉ, tinh tế. Nhìn chung nghệ thuật trang trí mang đậm phong cách kiến trúc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đền Trúc Lâm là một di tích mang giá trị lịch sử nghệ thuật kiến trúc độc đáo, khác biệt so với các ngôi đền được xây dựng cùng thời.


    ---------- Post added at 04:07 PM ---------- Previous post was at 04:06 PM ----------

    [h=4]Đền Trung Tả
    [/h]



    Trung Tả là tên ngõ của phố Khâm Thiên, là một trong 26 thôn của tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương, tới giữa thế kỉ XIX, hợp thành thôn Huy Văn - Hương Miến, sau là làng Văn Hương, rồi đổi thành Văn Chương.
    Đền Trung Tả toạ lạc ở số 264 phố Khâm Thiên, phường Thổ Quan, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
    Cổng đền Trung Tả có khắc dòng chữ Hán "Văn Chương linh từ", cạnh đền vẫn còn cây si già um tùm gắn liền với nhiều sự tích về vua Lê Thánh Tông và người mẹ. Mẹ vua là bà Ngô Thị Ngọc Dao, gốc ở Đồng Bảng, Yên Định, Thanh Hoá. Ông ngoại vua là Ngô Từ - gia thần của vua Lê Thái Tổ. Bà Dao là vợ thứ 4 của vua Lê Thái Tông, khi có thai, triều thần gièm pha, khép vào tội tử hình. Nguyễn Thị Lộ - vợ Nguyễn Trãi, ra sức kêu xin nên bà được về ở tại chùa Huy Văn. Bà sinh ra Lê Tư Thành (tức Lê Thánh Tông). Thời kì loạn Nghi Dân, bà Dao trú tại chùa, mở quán bán nước ở Trung Tả. Cả thời gian dài, Tư Thành mai danh ẩn tích, có lần còn cắt tóc đi tu ở chùa Thánh Chúa (Dịch Vọng). Loạn Nghi Dân dẹp xong, các đại thần Lê Khả, Lê Xí, Lê Lăng cùng đi tìm Tư Thành. Đến Trung Tả, bên quán nước, một vị quan chỉ ngay con cóc ra thơ đối, Tư Thành ứng khẩu:
    Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi,
    Chốm nghiêm thăm thẳm một mình ngồi
    Tặc lưỡi đôi ba con kiến gió
    Nghiến răng chuyển động bốn phương trời.
    Câu thơ có khẩu khí đế vương như câu thơ của Lý Công Uẩn vịnh Phật khi xưa. Các đại thần nghe bài thơ, biết ngay là Tư Thành nên sụp lạy và mời ông về lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Lê Thánh Tông. Thời ông trị vì (1460 - 1497) là thời kì cực thịnh của chế độ phong kiến. Ông kiên quyết bảo toàn lãnh thổ, ban bố Luật Hồng Đức và có nhiều biện pháp khuyến nông, bảo vệ đê điều, mở rộng văn hoá, giáo dục, kén chọn hiền tài. Khi vua băng hà, đại thần Thân Nhân Trung đã ca ngợi:
    Văn rực rỡ Khuê Bích
    Học như vực như nguồn
    Lại coi trọng điển lễ
    Lại xa nịnh, thân hiền
    Phơi phới đời thịnh trị
    Sưu thuế không nhiễu phiền.
    Trị nước theo chín phép
    Trị dân dùng tám quyền
    Trăm quan thảy chỉnh đốn
    Muôn họ đều vỗ yên
    Văn trị đà rực rỡ
    Võ công huy hoàng thêm.
    (Bài minh và văn bia Chiêu Lăng)
    Trong hậu cung đền Trung Tả có tượng đồng bà Ngô Thị Ngọc Dao, bên trái là tượng Lê Thánh Tông, bên phải là tượng một cung phi họ Phạm, mẹ vua Thái Tông (vợ vua Lê Thái Tổ).
    Đền còn lưu giữ được bức đại tự lớn như Lê triều Thái hậu, Hoa tú hội linh và nhiều câu đối được sơn son thiếp vàng. Ngoài tượng bà Ngô Thị Ngọc Dao và Lê Thánh Tông, đền cũng có nhiều tượng như tượng bồ tát, tượng tam toà thánh mẫu, Hoàng Mười bến củi, Hoàng Bẩy bảo hà, Quan Âm thiên thủ thiên nhãn, Thích Ca sơ sinh...
    Lễ hội làng Văn Chương từ trước năm 1945 có đám rước từ chùa Huy Văn qua đền Sinh Từ, rồi quay về đền Trung Tả. Lễ hội có nhiều trò vui như đi cầu phao, bắt vịt, chọi gà, chọi chim, đập nồi.
    Đền Trung Tả được Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hoá vào tháng 7/1993.




    ---------- Post added at 04:07 PM ---------- Previous post was at 04:07 PM ----------

    [h=4]Đền Sọ
    [/h]



    Đền Sọ là một ngôi đền cổ, hiện toạ lạc ở xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Vì làng Phù Lỗ có tên Nôm là làng Sọ nên đền cũng mang tên làng.
    Đền Sọ thờ hai anh em Trương Hống , Trương Hát. Hai ông là danh tướng của Triệu Quang Phục, tức Triệu Việt Vương sau này.
    Trong kháng chiến chống Pháp, đền bị huỷ hoại nhiều, đến những năm gần đây mới được sửa chữa lại. Đền không còn những di vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật nhưng sự tích của đền thì rất cổ.
    Sử cũ chép rằng: "Trương Hống, Trương Hát là hai anh em người làng Vân Mẫu, huyện Võ Giàng (Hà Bắc). Mẹ họ Phùng, mất sớm. Hai anh em phải đi làm thuê, kiếm ăn từ thuở nhỏ, lớn lên rất mạnh khoẻ và giỏi võ. Năm 517, Lý Bí thua trận, giao quyền chỉ huy cho Triệu Quang Phục. Hai anh em liền chiêu một trai tráng trong vùng nổi lên hưởng ứng, đóng đồn ở xã Tiên Tạo (Đa Phúc - Hà Bắc) đánh nhau với quân Lương, tiêu hao lực lượng của chúng. Triệu Quang Phục cho người đến liên lạc và cùng nhau chống bọn xâm lược.
    Ngày thắng lợi, hai anh em đều được phong tướng quân. Năm 557, Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương nhưng đánh mãi không thắng, bèn tìm cách giảng hoà rồi xin làm thông gia. Hai ông khuyên vua nên từ chối, vua không nghe. Hai ông liền xin từ chức về làng làm ăn. Lý Phật Tử cướp được ngôi, cho người mời hai ông ra làm quan. Cả hai đều khước từ và rủ nhau đi ẩn ở núi Phú Long (Phúc Thọ - Hà Nội). Lý Phật Tử đặt giải thưởng cho ai cắt được đầu hai ông. Nghe tin đó, hai ông tự tử.
    Nhân dân thương tiếc, lập đền thờ và tôn vinh hai ông là thánh Tam Giang".
    Năm 1077, trong trận quyết đấu với quân Tống ở chiến tuyến sông Cầu, Thái uý Lý Thường Kiệt đã cho người vào đền Sọ cúng cầu thần Tam Giang trợ giúp phá quân Tống, rồi nửa đêm ngâm vang bài thơ Thần Nam Quốc Sơn Hà nhằm khích lệ ba quân đánh tan quân xâm lược.
    Đình Lộ hiện nay là một địa điểm tham quan của nhiều du khách khi đến tham quan Hà Nội và ngẫm về dư âm của thời xưa khi bài thơ thần vang lên dõng dạc trong đền đã góp phần bảo vệ phòng tuyến sông Cầu và đánh tan quân xâm lược nhà Tống.




    ---------- Post added at 04:07 PM ---------- Previous post was at 04:07 PM ----------

    [h=4]Đền Lộ
    [/h]



    Đền thuộc xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
    Từ Hà Nội, đi xuôi theo đê sông Hồng khoảng 13km là đến đền Lộ. Đền án ngữ một vùng cửa sông, lại nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ nên du khách về thăm đền Lộ bằng đường bộ, đường thuỷ đều rất thuận tiện. Lộ là tên gọi tắt của làng Đại Lộ. Trước năm 1961, làng thuộc xã Ninh Sở, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, nay thuộc huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Theo Ngọc phả "Tứ vị Thánh nương Nam Hải" thì đền thờ bà Thục Phi của vua Đô Tông nhà Tống. Bà họ Triệu, huý Đoan. Khi Đế Bình lên ngôi, quân Nguyên từ phía Bắc tràn xuống, Thừa tướng Lục Tú Phu và Trương Thế Kiệt bèn tìm đường chạy sang An Nam. Bấy giờ, thuyền qua biển gặp gió bão dữ dội. Trước đó, Thái hậu cùng ba công chúa cũng theo thuyền lánh nạn, nghe thuyền vua bị đắm, liền đấm ngực than rằng: "Ta liều chết lặn lội đến đây, nay lại gặp rủi ro này thật chẳng còn thiết sống nữa". Đoạn bà hướng về phía Bắc bái vọng, than khóc một hồi rồi nhảy xuống biển tự tử. Hôm đó là ngày 12 tháng 6. Thi thể của bà trôi theo dòng nước đến đất Hoan Châu, dân địa phương liền vớt lên bờ, thấy vẻ mặt bà vẫn tươi tắn như khi còn sống. Chôn cất bà xong, chỉ trong chốc lát, mối đùn lên thành ngôi mộ lớn. Biết việc này sẽ ứng với điều lành, dân bèn lập đền thờ.
    Năm Hưng Long thứ 19 (1311), vua Trần Anh Tông cầm quân xuống phương Nam, đang đêm vua nằm mộng thấy nữ thần đến trước mặt khóc lóc nói rằng: "Thiếp là Thục Phi của vua Tống, bị sóng gió mà gặp nạn ở đây. Nay nhờ Thượng đế khen khí tiết, sắc phong cho thiếp làm hải thần ở đây đã lâu. Chuyến đi này xin được giúp Thánh thượng lập công".
    Vua Anh Tông giật mình tỉnh giấc, bèn sai lập đàn tế lễ. Quả nhiên, trận ấy thắng lớn. Lúc khải hoàn, vua tặng phong mỹ tự, sai quan hữu ty lập đền thờ phụng.
    Năm Hồng Đức thứ nhất (1470), vua Lê Thánh Tông cùng đại quân đi chinh phạt quân Chiêm, khi qua cửa Càn Hải, vua đến linh từ làm lễ, đề thơ, trong đó có câu:
    Hương hoả còn truyền đền Thánh Mẫu,
    Sóng xô thức tỉnh giấc Anh Tông.
    Sau đó, quan quân tiến thẳng vào thành Đồ Bàn, phá tan giặc. Chiến thắng trở về, vua tôn bà là Quốc mẫu Bá Vương, ban sắc cho các vùng cửa biển tuỳ nghi dựng đền thờ bà.
    Đời sau, những ai đi thuyền qua biển, gặp gió to sóng cả, nếu thành tâm khấn bà thì đều được bình an.
    Lại nói ở làng Lộ, vào cuối đời Trần, khi nước sông dâng cao, người làng thấy có bốn cái nón, trong mỗi cái có một cái nồi làm bằng đất nung trôi vào bờ sông. Sau này hiển báo dân thôn phải làm đền thờ thì mới được yên. Thế là đền Lộ được dựng ngay trên khu đất đình Nhĩ.
    Đền thường xuyên được trùng tu. Lần gần đây là vào năm Thành Thái 14 và năm Khải Định thứ 10. Đền Lộ khá lớn và đẹp: "Đằng sau có sông Kim Ngưu nhiễu quanh, đằng trước có sông Nhị Hà làm án, bên tả có bãi hình như con phượng chầu, bên hữu có đống hình như con voi phục...". Ở trong đền làm thành 10 điện liên tiếp và cột toà phương đình cách 30 thước. Cổng đền xây bốn cột đại trụ, 2 cửa mã ở tầng ngoài, dựng hai nhà bia ghi công đức những người cúng tiền làm vườn hoa, lát sân ngõ bằng gạch Bát Tràng. Ở vườn đền trồng 102 cây nhãn.
    Đền Lộ linh thiêng, người làng kể, vào đời Trần, đời Lê, đoạn đê ở gần đền thường bị vỡ. Các quan trên về hàn khẩu mãi không được, sau phải vào đền làm lễ cầu đảo thì hàn khẩu được ngay. Bấy giờ các trấn tâu về Bộ Lễ xin vị thần đền được dự Quốc tế. Vua chuẩn cho, lại ban cho đền 4 chiếc bình sứ vẽ độc long, cùng một chiếc khác vẽ lưỡng long chầu nguyệt.
    Hội Lộ hàng năm được mở từ mồng 1 đến mồng 10 tháng 2 âm lịch. Nhưng hội đông đảo nhất là ngày 5 - 6 - 7 tháng 2 vì đó là ngày Thánh đản. Ngày mồng 5 có rước cấp thuỷ, lấy nước từ sông Hồng về đền để dâng cúng quanh năm. Các ngày lễ thường cúng bằng trầu rượu, có khi bằng oản, chè đậu kho. Tế lễ xong, những đồ lễ được đem phân phát suốt làng để toàn dân được hưởng lộc Thánh Mẫu.
    Phó giáo sư Trần Lâm Biền cho biết: "Ở vùng ven biển và bên các con sông lớn, người ta thường nhờ Càn Hải Đại Vương - vị thần phù trợ cho người dân biển. Ở đền Lộ, Càn hải Đại vương được hội nhập với tứ vị thánh nương nhà Tống và được dân dã hoá. Sau khi chiêm ngưỡng các tượng mẫu đã được tạo tác khá đẹp, khiến tâm linh người hành hương còn nghĩ đến tứ vị thánh mẫu. Họ là lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra thế giới này, một tôn giáo bản địa được hình thành và phát triển từ khi người Việt trồng lúa nước. Các ý tưởng của người xưa được thể hiện sinh động trong kiến trúc và nghệ thuật trang trí của đền. Ở hai đỉnh cột trụ khá lớn trước đền là hai con rồng đang cuộn. Rồng cuộn tạo nên mưa. Hai cột hai bên đắp hai con lân, biểu thị sức mạnh và trí tuệ tầng trên. Các mảng chạm gỗ ở toà phương đình cũng thể hiện ước cầu hạnh phúc: phú, quý, thọ, khang, ninh; hình các tia chớp. Chớp gọi mây mưa, tạo nguồn nước..."
    Hiện nay đền Lộ là một trong những điểm tham quan của nhiều du khách trong và ngoài nước.


     
  5. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền Hai Bà Trưng - Phố Đồng Nhân - Quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội
    [/h]




    Đền Hai Bà Trưng là đền thờ hai nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta vào nửa đầu thế kỉ thứ 1 là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Ngôi làng có đền trước kia thuộc làng Đồng Nhân, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, nay thuộc phố Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
    Đền Hai Bà Trưng là ngôi đền thờ hai bà nổi tiếng ở vùng đất Thăng Long. Sự ra đời của ngôi đền đã từng được kể và ghi lại như sau: "Vào đời Lý Anh Tông, niên hiệu Đại Định 3 (1142), có pho tượng đá nổi trên dòng Nhị Hà, toả sáng cả một đoạn sông, thuyền bè không dám đến gần. Vua Anh Tông biết chuyện bèn sai người ra đón rước nhưng không được. Theo ý các bô lão, người ta lấy vải đỏ làm lễ, buộc vào tượng rồi rước vào. Đó là một pho tượng cao lớn, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay chỉ lên trời, một chân quỳ, một chân ngã ra". Ngôi đền được dựng ở bãi Đồng Nhân, bên ngoài đê sông Hồng vào năm Đại Định 3, đời Lý Anh Tông. Do ở vùng đất bãi sông luôn bị xói lở nên dân làng Đồng Nhân đã phải dời ngôi đền tới khu Võ Sở của triều Lê ở thôn Hương Viên (địa điểm hiện nay) vào năm Gia Long 18 (1819).
    Đền Hai Bà Trưng còn có tên gọi là đền Đồng Nhân. Đền là trung tâm của quần thể di tích với đền thờ Thành hoàng làng và chùa thờ Phật.
    Đền kiến trúc theo kiểu nội công ngoại quốc, gồm tiền tế, đại bái và hậu cung. Tiền tế có 7 gian. Trong tiền tế được bày hai voi gỗ sơn đen, ngà của voi là ngà thật. Đây là hai voi tượng trưng cho voi của hai bà cầm quân ra trận. Bên cạnh đó là các bức hoành phi, câu đối ca ngợi sự nghiệp cùng công đức của Hai Bà. Toà bái đường được đặt ngai thờ và một tấm thảm thể hiện hình hai bà cỡi voi đánh giặc. Ngoài ra, còn có nhang án, hoành phi, câu đối. Trong hậu cung đặt tượng Hai Bà cùng 6 tượng nữ tướng dàn hai bên, đó là các tướng Lê Chân, Hoà Hoàng, Thiên Nga, Nguyễn Đào Nương, Phùng Thị Chính và Bát nạn công chúa Phạm Thị Côn.
    Khí tiết của hai bà được khái quát trong La Thành cổ tích vịnh là:
    Thù nhà hận nước dám lơi tình,
    Cứu vãn sơn hà "tỉ muội binh".
    Lãng Bạc cỏ hoa còn đẫm lệ,
    Nghìn thu khí tiết, bại cùng vinh.
    Hai bà và các tướng lĩnh được thờ ở nhiều nơi như Hát Môn (Hà Nội), Phụng Cồng (Hưng Yên), Mê Linh (Vĩnh Phú) và có tới hơn 400 nơi thờ các vị tướng của hai bà.
    Hàng năm, đền tổ chức ngày hội chính vào mồng 6 tháng Hai âm lịch. Cứ đến ngày mồng 5 tháng Hai, dân làng Phụng Công (Văn Giang - Hưng Yên) cử đoàn sang đền Đồng Nhân, cùng với người dân Đồng Nhân rước lễ, lấy nước giữa dòng sông về tắm tượng và bắt đầu lễ hội với nhiều trò chơi dân gian độc đáo.
    Đền Hai Bà Trưng được công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hoá vào tháng 4/1962.



    Loại
    Đền

    Địa chỉ hiện nay
    Mê Linh - Mê Linh - thành phố Hà Nội


    [h=4]Đền Hai Bà Trưng - Mê Linh - Mê Linh - thành phố Hà Nội[/h]




    Đền thờ Hai Bà Trưng toạ lạc trên một khu đất cao thoáng đãng thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
    Theo thuyết phong thuỷ: Đền toạ lạc trên thế đất "Trán con voi trắng" trong hình cao “Bạch tượng uyên hồ” (voi trắng uống nước trong hồ), đến tận bây giờ vẫn còn vết tích của những nơi như ao Mắt Voi, vòi voi và hồ Ao Bàng, phía trước là đường kéo quân của Hai Bà Trưng xưa kia chạy vòng phía trước Đền. Sau đền là khu vực thành cổ gồm 2 lớp: trong là thành, ngoài là quách, dân gian gọi là Thành Ống. Kiến trúc đền gồm: Tam quan, nhà tiền tế, nhà trung tế và hậu cung. Phía ngoài hậu cung, có cây Lụa già. Nơi đây, được Đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư Đảng chọn làm hòm thư bí mật và chọn đền thờ Hai Bà Trưng làm một trong những nơi hội họp bí mật để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội ngày 19/8/1945.
    Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43 ) là một cuộc “Tổng khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi” đầu tiên của nhân dân ta cách đây gần 20 thế kỷ, đã lật nhào hoàn toàn ách thống trị kéo dài 219 năm của phong kiến phương Bắc trên đất đai Văn Lang - Âu Lạc xưa.
    Hàng năm, đền tổ chức lễ hội tưởng nhớ công đức của Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh vào ngày mùng 6 tháng Giêng. Đền thờ Hai Bà Trưng là một trong những di tích lịch sử cách mạng quan trọng đã được nhà nước xếp hạng là di tích cấp Quốc gia năm 1980.




    ---------- Post added at 04:08 PM ---------- Previous post was at 04:08 PM ----------

    [h=4]Đền Sòng Sơn
    [/h]




    Đền toạ lạc ở số 35 phố Tôn Đức Thắng, phường Quốc Tử Giám, Quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Đền Sòng Sơn có tên tự là Sòng Sơn vọng từ, nằm trong khu vực dày đặc các di tích văn hoá lịch sử của kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay. Sát phía Bắc là Văn Miếu - Quốc Tử Giám, xa hơn về phía Tây Bắc là Bích Câu đạo quán, về phía Nam thì có điện Huy Văn.
    Theo hồi ức của nhân dân địa phương, trước đây, đền Sòng Sơn là một di tích văn hoá, tín ngưỡng gắn bó mật thiết với cộng đồng dân cư. Đền là nơi thờ công chúa Liễu Hạnh hay bà Chúa Liễu, Mẫu Sòng, Mẫu Phủ Giày, Mẫu Nghi thiên hạ - một trong bốn vị thần bất tử trong thần điện của người Việt. Bên cạnh nội dung lịch sử, đền Sòng Sơn còn mang vẻ đẹp dung dị của kiến trúc dân gian truyền thống.
    Trước đây, đền là một kiến trúc hoàn chỉnh gồm các kiến trúc bộ phận và khuôn viên bao quanh. Do quá trình đô thị hoá đầu thế kỉ thứ XX, khuôn viên của đền bị thu hẹp dần. Năm 1947, thực dân Pháp đã đốt phá ngôi đền. Quá trình phục dựng di tích trong những năm 1949 - 1951 đã quy hoạch lại toàn bộ vị trí, quy mô của từng kiến trúc để cho đền Sòng Sơn hoà nhập với môi trường đô thị mới. Ngày nay, đền Sòng Sơn được xây dựng theo hướng Tây, trông ra đường Tôn Đức Thắng. Tính từ ngoài vào, kiến trúc đền bao gồm cổng tam quan, một khoảng sân hẹp và khu thờ tự. Tam quan đền Sòng Sơn là một kiến trúc gạch nhỏ, được xây dựng theo chiều ngang của nhà tiền tế. Cổng có kết cấu đơn giản, cửa chính được khuôn bằng hai tục biểu thấp, đỉnh tục đắp tượng nghê, hướng mặt vào nhau. Phần trên lối vào xây hình cuốn thư, vòm, cuốn trang trí hoa dây. Hai cửa nách được xây dựng cân đối, bên trên làm 4 mái nhỏ, qua cổng vào là khoảng sân hẹp, theo chiều ngang của đền đến nơi thờ tự.
    Khu kiến trúc chính được quy hoạch tập trung do các nếp nhà ngang tạo thành. Nhà tiền tế gồm 5 gian xây kiểu tường hồi bít đốc. Chính giữa bờ nóc trang trí hình mặt trời lửa đứng trên mặt hồ phụ, diềm mái trước làm hệ thống tường hoa, gian giữa xây cao bức cuốn thư, trên đó ghi tên di tích bằng bốn chữ Hán "Sòng Sơn Vọng Từ". Bộ khung nhà tiền tế có kết cấu đơn giản: vì kèo quá giang, lòng nhà hẹp, nền lát gạch vuông, trong nhà, tại gian giữa tiếp giáp với đại bái, đặt một khám lớn thờ 5 pho tượng ngũ vị tôn ông. Khám được trang trí khá cầu kì, phần trên chạm nổi đề tài lưỡng long chầu nhật. Mặt trời tròn nổi, 6 tia lửa toả ra xung quanh, hai con rồng nằm đăng đối hướng vào mặt trời, rồng mang vẻ dữ dằn, đầu nhô cao, mắt lồi, mũi nở, râu và tóc kết thành đao nhọn toả ra phía sau, thân rồng được thể hiện tỉ mỉ từng lớp vẩy và hàng vây chạy dọc sống lưng, điểm xuyết trên thân và chân rồng là những cuộn mây theo quan niệm vân trùng long, phong trùng hổ.
    Khu thờ tự chính có kết cấu hình chữ đinh gồm nhà đại bái và hậu cung. Đại bái gồm 5 gian xây theo kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Bộ khung đỡ mái của toà đại bái có kết cấu giống như nhà tiền tế. Các con hoành xà được bào trơn trông nhẹ nhàng. Lòng nhà đại bái được chia thành 5 gian không đều nhau. Trong nhà đại bái xây những bệ gạch cao làm nơi toạ lạc cho các vị thần được thờ. Hậu cung gồm 3 gian dọc, gắn với gian giữa của toà đại bái, gian trong cũng xây bệ gạch lớn đặt các vị thánh mẫu.
    Là nơi thờ Mẫu nên điện thần của đền Sòng Sơn được bố trí thành những khu vực tách biệt nhau. Ngoài khám thờ ngũ vị tôn ông, ở toà đại bái còn có 3 khu thờ tự. Gian giữa thờ Thích Ca sơ sinh và hai ông hoàng. Gian hồi phải thờ Thuỷ Tinh công chúa, hai tượng mẫu và các cô chầu. Bên trái là nơi toạ lạc của Ngọc hoàng, hai quan hoàng và các cô các cậu. Tại hậu cung có toà tam thánh mẫu: Mẫu Thiên (Liễu Hạnh), Mẫu Thuỷ và Mẫu Nhạc, ngồi trong một khám kính lớn. Trước bà Chúa Liễu có tượng đức Phật A Di Đà và Quán Âm toạ sơn. Sự có mặt của ba nhân vật quan trọng này ở Phật điện của đền Sòng Sơn cho ta thấy sự đan xen tư tưởng hoà đồng "tam giáo đồng nguyên" trong tâm thức tín ngưỡng truyền thống của người Việt.
    Tồn tại tới ngày nay, di tích đền Sòng Sơn còn bảo lưu được bộ di vật văn hoá - lịch sử khá phong phú, đa dạng với nhiều chủng loại và chất lượng khác nhau: 4 bức hoành phi, 3 bức cửa võng, chạm rồng chầu, 1 long ngai chạm rồng thế kỉ XIX, 10 khám thờ, 37 pho tượng tròn. Các pho tượng được tạc tác tỉ mỉ, công phu, tinh xảo, khác với các điêu khắc Phật giáo. Các pho tượng thánh Mẫu ở đền Sòng Sơn mang nét đẹp dân dã, tràn đầy tính nhân đạo vốn có của dân tộc ta. Sự sinh động trên từng pho tượng là giá trị điển hình của điêu khắc tượng Mẫu dân gian truyền thống. Ngoài giá trị thẩm mỹ, các hiện vật trên còn là minh chứng sống động cho khả năng, sức sáng tạo nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Các đề tài trang trí còn là nguồn tư liệu quý, làm cơ sở trong việc tìm hiểu về những quan niệm tư tưởng, mỹ tục quan truyền thống của nhân dân ta.
    Cùng với các di tích phụ cận như chùa Thiên Phúc, chùa Ngọc Hồ, điện Huy Văn, đền Sòng Sơn là một vệ tinh tôn tạo thêm vẻ đẹp, giá trị của khu di tích nổi tiếng Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Các di tích này tạo thành một khu văn hoá - lịch sử, một tuyến tham quan du lịch kỳ thú, thu hút đông đảo du khách thập phương đến thăm thủ đô Hà Nội.




    ---------- Post added at 04:09 PM ---------- Previous post was at 04:08 PM ----------

    [h=4]Đền Hoàng
    [/h]Đền Hoàng nằm cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 15 km về phía Tây Bắc, thuộc thôn Hoàng Xá, xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Đền Hoàng được xây dựng vào khoảng đầu thế kỉ XX. Đền thờ anh hùng dân tộc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và thờ Mẫu.
    Đền nằm trên một khu đất cao ngoài đê, sát bờ Bắc sông Hồng, bao quanh là vườn cây rộng. Quy mô kiến trúc uy nghi với nhiều lớp nhà ngang, dọc, gồm cửa vào, sân và khu thờ tự. Cổng được xây dạng trụ biểu và những mảng tường lửng hợp thành. Đỉnh của hai trụ chính đắp hình trái dành, bốn ô lồng bên trang trí đề tài tứ linh. Tại bốn góc sân nhỏ trước đền là bốn am làm sơn trang. Sau sân là phần kiến trúc chính, nơi thờ tự và thực hành các nghi lễ cúng tế.
    Khu đền chính có quy mô lớn, tập trung theo hướng Đông. Ngoài cùng là nhà tiền tế, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, ba gian. Bộ khung đỡ mái có kết cấu đơn giản, kiểu vì kèo quá giang. Sát sau tiền tế là trung tế, có nếp nhà ngang 5 gian, rộng lòng, là nơi toạ lạc của các vị thần và nơi xếp đồ tự khí.
    Cung cấm nằm sát trung tế là nơi thờ chính của đền Hoàng, kiến trúc có quy mô lớn, hình chữ đinh, gồm đại bái và hậu cung. Đại bái là nếp nhà rộng lòng, ba gian, xây kiểu hai tầng tám mái với các góc đao cong ngược lên. Trong nhà, cả ba gian xây những bệ gạch cao dần từ ngoài vào tới sát tường hậu. Gian giữa có ba lớp: lớp trên cùng thờ ba pho tượng Tam thế của đạo Phật đang ngồi kiết già trên toà sen, lớp thứ hai có Ngọc hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu và năm pho tượng nam thần nhỏ. Dưới cùng là quan Hoàng Triệu. Trên dãy bệ của hai bên phải đặt hai bộ long ngai, tượng Đức Thánh Trần và 6 pho tượng nhỏ. Gian bên trái có tượng Mẫu Thượng Ngàn, hai tượng chầu và 12 cô sơn nữ. Hậu cung gồm hai gian nhà dọc xây kiểu bốn mái cong, là nơi thờ Phật Bà Quan Âm, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Tứ Phủ Công Đồng và Mẫu Liễu Hạnh. Đền còn hai dãy dải vũ, nằm son song và chạy dài theo hồi nhà trung tế và tiền tế. Dãy bên phải thờ Tam toà Thánh mẫu (ba pho tượng Mẫu), dãy bên trái làm nhà khách phục vụ việc thờ cúng.
    Đền Hoàng hiện có rất nhiều di vật với những chủng loại và sắc thái khác nhau, gồm hơn 20 pho tượng nhỏ, 10 câu đối, 5 hoành phi ca ngợi cảnh đẹp di tích và sự linh thiêng của các thần thờ và nhiều đồ thờ cúng khác.
    Đền Hoàng là một trong những kiến trúc tôn giáo có khuôn viên rộng lớn nằm trong môi trường thiên nhiên thoáng mát bên sông Hồng. Các nếp nhà quy hoạch tập trung, tạo bề thế cho kiến trúc. Kiến trúc và cảnh quan hài hoà, tạo nên một cảnh quan văn hoá hấp dẫn khách tham quan.
    Đền Hoàng còn dành riêng một cung làm nơi tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đền là cơ sở cách mạng của Quận 4 từ năm 1946 đến khi thủ đô được giải phóng vào năm 1954. Đây là nơi liên lạc giữa nội thành và ngoại thành, nơi che giấu, bảo vệ các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng... Thủ từ đền lúc bấy giờ là cụ Phạm Thị Cả được giao nhiệm vụ bảo vệ cán bộ đi về an toàn.
    Với những giá trị quý về lịch sử - văn hoá - kiến trúc, đền Hoàng xứng đáng được bảo tồn, tôn tạo làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá của nhân dân và là nơi thưởng ngoạn của du khách gần xa.



    ---------- Post added at 04:09 PM ---------- Previous post was at 04:09 PM ----------

    [h=4]Đền Tam Tổng
    [/h]




    Đền Tam Tổng hiện toạ lạc tại thôn Trung, xã Thanh Nhàn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Đền Tam Tổng là tên Nôm (đền của ba tổng: Kim Anh, Cổ Bái, Gia Thượng), tên chính của đền là đền Thanh Nhàn. Tương truyền, Thánh Gióng sau khi đánh tan giặc Ân đến đây thấy cảnh vật tốt tươi, hiền hoà, ngài đã đặt tên là làng là Thanh Nhàn. Thanh Nhàn là tên làng, tên xã và cũng là tên đền thờ vị anh hùng. Theo sử sách, đền Thanh Nhàn được trùng tu lần thứ nhất vào năm 1574.
    Đền Thanh Nhàn toạ lạc trên một quả đồi rộng hơn 2ha. Thế đất theo phong thuỷ được gọi là bạch tượng ẩm thuỷ (voi trắng uống nước).
    Đền được xây dựng khang trang, gồm 100 gian uy nghi, có hậu cung đệ nhất, đệ nhị, đại đế, kiến trúc kiểu chồng diêm tám mái. Trong kháng chiến chống Pháp năm 1948, tiêu thổ kháng chiến, đền Thanh Nhàn chỉ còn lại hậu cung. Nhân dân đã đưa các di vật vào bảo quản cho đến ngày nay. Năm 1987, nhân dân Thanh Nhàn tự đóng góp xây dựng khu đại đế để bảo vệ di tích. Tất cả các đền thờ hiện nay đều là nhà cấp 4 quá sơ sài, lợp ngói móc che mưa nắng. Lịch sử đền Thanh Nhàn cùng với đền Phù Lỗ (đền Sọ) và đền Thượng đều nằm trong một quần thể các di tích Thánh Gióng. Hiện tại, đền còn có nhiều di vật quý hiếm.
    Trong các di vật của đền phải kể đến pho tượng Thánh Gióng bằng đồng hun, nặng 2000kg, đúc từ năm 1595. Tượng ngồi thế thiết triều, cao 2,1m, bề vai rộng 1,18m. Đây là pho tượng cổ thứ hai ở Hà Nội (sau pho tượng ở đền Quán Thánh).
    Đền còn có một đôi thần mã (bằng đồng hun), để ngoài cung đế một. Mỗi pho tượng trọng lượng 1000kg, đúc từ năm 1595. Theo các nhà sử học thì đây là tượng thần mã lớn nhất, trên miền Bắc chưa có đôi nào sánh kịp. Bên cạnh là tượng hai vị quản mã, tạc bằng gỗ quý từ năm 1595, đến nay vẫn còn nguyên vẹn.
    Tại đền còn có chuông đồng (kim ngân), nặng 280 kg, cao 1,25m, rộng 0,68, làm từ năm 1820, tai chuông đúc theo thế rồng bay. Tương truyền, ngày xưa khi đánh tiếng chuông ngân xa tới hơn 20km. Ngày nay, do bảo quản lâu ngày và xung quanh nhiều âm thanh pha tạp, động cơ xe cộ ồn ào, không còn cái tĩnh lặng như xưa.
    Ngoài ra, đền còn có một quả chuông con, nặng 15kg, đúc từ năm 1820, dùng để tế lễ và một số đồ vật bằng đồng như chậu đồng, giáo đồng, bát hương đồng, cây hương đồng ... đều đúc từ năm 1820 và chiếc khánh đá từ xưa vẫn còn.
    Hiện nay, đền Thanh Nhàn còn bảo tồn được 9 đạo sắc phong của vua ban qua các triều đại từ hậu Lê đến cuối triều Nguyễn. Năm 1990, đền Thanh Nhàn cũng đã được xếp hạng Di tích Văn hoá Lịch sử.
    Lễ hội đền diễn ra vào ngày mồng 5 -6 -7 tháng Giêng âm lịch hàng năm.
    Hiện nay, di tích đền Thanh Nhàn chưa được quan tâm bảo tồn đúng mức để thể hiện đúng vị trí lịch sử vốn có của nó nhằm giáo dục truyền thống và thu hút du khách du lịch tới tham quan, hành lễ.


    ---------- Post added at 04:10 PM ---------- Previous post was at 04:09 PM ----------

    [h=4]Đền Phù Ủng - 25 phố Lý Quốc Sư - Quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội
    [/h]




    Đền Phù Ủng toạ lạc ở số 25 phố Lý Quốc Sư, gần Nhà thờ Lớn Hà Nội. Đền do dân làng Phù Ủng từ Hải Hưng ra làm ăn tại Hà Nội lập nên để thờ Phạm Ngũ Lão - người làng Phù Ủng, là tướng tài bên cạnh Trần Hưng Đạo. Vì ở Hải Phòng đã có đền Phù Ủng nên đền ở Hà Nội được gọi là Phù Ủng Vọng từ, được ghi trên cổng tam quan của đền. Đồng thời để tôn vinh người đã thu dụng và đào tạo Phạm Ngũ Lão thành một tướng giỏi nên đền Phù Ủng còn thờ cả Trần Hưng Đạo.
    Qua các sắc phong còn lại cho thấy đền Phù Ủng được xây dựng sớm nhất vào thế kỉ XVIII và được trùng tu nhiều lần. Năm 1946, giặc Pháp đã bắn phá và làm sập bái đường. Nhưng sau đó, nhân dân khu phố đã đứng ra xây dựng lại. Tam quan của đền 2 tầng 8 mái nằm sát hè phố Lý Quốc Sư. Qua tam quan là sân gạch với hai bên là tả vu và hữu vu, nhưng nay đã bị dân cư chiếm dụng làm chỗ ở. Đền gồm bái đường phía trước và hậu cung phía sau. Phía trước hậu cung là 1 hương án, hai bên có hai bệ thờ đặt trên tượng Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, 2 người con gái của Trần Hưng Đạo cùng tượng phu nhân Phạm Ngũ Lão.
    Đền Phù Ủng còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị thuộc thế kỉ XVIII, XIX và một số ít thuộc đầu thế kỉ XX như tượng Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, các long ngai, long án, 7 sắc phong và nhiều hoành phi, câu đối. Đáng chú ý là bốn chữ "Hoành sóc giang san" được khắc chạm trên một bức hoành phi. Bốn chữ đó được trích trong câu thơ Hoành sóc giang san cáp kỷ thu của Phạm Ngũ Lão. Ở cổng đền còn có câu đối:
    Đông A hiển thánh trung lương tướng,
    Nam quốc anh linh Thượng đẳng thần.
    Hiện nay, đình Phù Ủng vẫn được bảo tồn tốt, chỉ tiếc là một phần khuôn viên đã bị dùng làm nơi cư trú nên cảnh quan cũng mất đi vẻ uy nghi, tĩnh lặng.
    Đền đã được công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hoá năm 1988.



    Loại
    Đền

    Địa chỉ hiện nay
    Phù Ủng - Ân Thi - Hưng Yên

    Địa chỉ trước kia
    Phù Lão - Kim Động - Hưng Yên


    [h=4]Đền Phù Ủng - Phù Ủng - Ân Thi - Hưng Yên[/h]Vị trí
    Đền Phù Ủng trước đây, thuộc làng Phù Ủng, xã Phù Lão, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Nay, đền toạ lạc tại làng Phù Ủng, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
    Đối tượng suy tôn
    Đền thờ danh tướng đời Trần của Trần Hưng Đạo, là Phạm Ngũ Lão – người có công lớn, giúp Trần Hưng Đạo trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông, và Ai Lao.
    Kiến trúc
    Đền được xây dựng trên nền nhà cũ của gia đình ông. Kiến trúc đền, gồm năm gian tiền bái, ba gian hậu cung. Xung quanh ngôi đền, là cụm di tích lịch sử văn hoá gồm nhiều đền chùa, miếu thờ các bậc tiền bối họ Phạm, đền thờ quận chúa Thuỷ Tiên – con gái duy nhất của ông và chùa thờ Phật.
    Lễ hội
    Hàng năm, từ 12 – 15 tháng Giêng âm lịch, dân làng thường mở hội, để tưởng nhớ công lao của vị danh tướng yêu nước. Đây cũng là lễ kỉ niệm ngày ra quân của Phạm Ngũ Lão. Đặc sắc nhất trong hội, là đám rước quận chúa Thuỷ Tiên với những nghi thức đặc biệt, thể hiện lòng trân trọng, nhớ ơn những bậc tiền bối có công với đất nước. Trong hội, còn có các trò vui: đánh cờ, đấu vật, hát chèo,...được tổ chức ở khu vực ngoài đền.
    Vật cù, là một cách mà Phạm Ngũ Lão dùng cho quân sĩ rèn luyện sức khoẻ và vui chơi. Cù hình tròn, làm bằng gỗ vuông, sơn đỏ, sân chơi là một bãi rộng chia làm 2 bên đông và tây, giữa sân kẻ một vạch ngang, chính giữa vạch đào một lỗ đặt quả dầu, hai đầu sân, mỗi bên đào một lỗ. Mỗi đội có 8 quân và 1 tổng, đầu chít khăn, đóng khố. Mỗi đội đóng khố một màu khác nhau. Trước khi chơi, hai đội xếp thành hai hàng làm lễ trước cửa đền. Trọng tài cầm quả cầu đặt ở hố giữa sân, phát hiệu lệnh, hai bên giành nhau cướp bỏ vào lỗ của đối phương, bên nào cho vào lỗ của bên kia là thắng cuộc. Trước cách mạng tháng Tám, triều đình đều cử các quan về tế lễ, sau này, việc tế lễ là do UBND huyện Ân Thi, chỉ dâng hương tưởng niệm.


    ---------- Post added at 04:10 PM ---------- Previous post was at 04:10 PM ----------

    [h=4]Đền Đông Dư Hạ
    [/h]Đền Đông Dư Hạ thuộc thôn Đông Dư, xã Đông Dư, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
    Từ trung tâm thành phố qua cầu Long Biên hoặc cầu Chương Dương, rẽ phải theo đê sông Hồng đi khoảng 8km thì tới xã Đông Dư. Đền Đông Dư hạ ở ngoài bãi sông Hồng. Được biết, trước đây đền nằm trong đê nhưng do sau này, khi nhiều lần lũ sông Hồng dâng cao, đê được dời vào trong và đắp cao nên đền mới ở ngoài bãi như hiện nay.
    Đền Đông Dư Hạ là đền thờ Mẫu, đồng thời thờ Trần Hưng Đạo. Đền Đông Dư Hạ được xây dựng sớm. Tuy nhiên, do các tư liệu về đền đã thất lạc, kiến trúc cũng đã thay đổi nhiều sau các lần trùng tu nên hiện nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể xác định niên đại chính thức của đền.
    Kiến trúc của đền cũng giống như các đền khác của khu vực đồng bằng Bắc Bộ còn tồn tại đến ngày nay. Cổng đền được tạo thành từ 2 cột trụ vuông 4 mặt có câu đối và nối liền với bức tường bao của đền. Đền kết cấu hình chữ đinh, 5 gian tiền tế, 1 gian hậu cung. Năm 1991, đền được trùng tu ở nhiều bộ phận nên tình trạng hiện nay vẫn còn khá tốt. Trong hậu cung đặt 3 khám được trang trí rồng, hoa dây. Khám đặt pho Tam toà. Ngoài tiền đường có bệ thờ Trần Hưng Đạo và bà chúa Sơn Trang.
    Đền cũng có một cửa ngách thông sang chùa Đông Dư Hạ. Ngoài các pho tượng, hoành phi, câu đối, đền còn nhiều đồ thờ tự khác.
    Đền Đông Dư Hạ cùng với đình và chùa Đông Dư Hạ tạo thành một cụm di tích lịch sử văn hoá có giá trị.
     
  6. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền Trấn Vũ - Quan Thánh - Ba Đình - thành phố Hà Nội
    [/h]



    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Cổng Tam quan đền Trấn Vũ - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Đền Trấn Vũ là một ngôi đền cổ của Hà Nội. Đền được lập từ khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long (1010). Khi đó, vua cho lập bài vị của thần và đặt trong đền ở phía Tây Bắc thành, gọi là Huyền Thiên Trấn Vũ quán. Dân chúng quen gọi tên đền là đền Quán Thánh hoặc đền Trấn Vũ. Đền hiện ở ngã tư đường Thanh Niên và đường Quán Thánh (phường Quán Thánh, quận Ba Đình), đời Lê thuộc đất phường Thuỵ Chương, huyện Vĩnh Thuận, phía Nam hồ Tây. Thực ra đây là một quần thể gồm một quán – tức cơ sở hành đạo của Đạo giáo – thờ Huyền Thiên đại đế, một vị thần coi giữ phương Bắc, có gốc tích Trung Hoa và một đền thờ Quan Thánh Đế quân (nay không còn).

    Lịch sử và truyền thuyết



    Đền Trấn Vũ là một trong "Thăng Long tứ trấn", được xây dựng từ thời Lý Thái Tổ. "Thăng Long tứ trấn" là bốn ngôi đền thờ bốn vị thần ngự từ xa xưa, ngày đêm canh giữ cho kinh thành bình yên và thịnh vượng. Đó là:
    - Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, trấn phương Đông.
    - Đền Voi Phục (Thủ Lệ) thờ Linh Lang Đại vương, trấn phương Tây
    - Đền Trấn Vũ (còn gọi là quán Trấn Vũ hay đền Quán Thánh) thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, trấn phương Bắc
    - Đền đình Kim Liên thờ thần Cao Sơn, trấn phương Nam.
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đền Trấn Vũ nhìn từ hồ Tây thời Pháp thuộc - Ảnh tư liệu[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Đền Trấn Vũ thờ Huyền Thiên đại đế. Tương truyền Huyền Thiên có nghĩa là vùng trời phương Bắc, Huyền Vũ là vị thần coi quản Huyền Thiên nên cũng còn được gọi là Huyền Thiên Đại đế. Đến đời Tống Tương Phù (1008-1016) chữ Huyền đổi ra Chân rồi tiếp đó lại đổi ra Trấn, cho nên gọi là Huyền Vũ, Chân Vũ hay Trấn Vũ đều được cả. Như vậy, thần được thờ ở đây có gốc tích Trung Hoa, thuộc Đạo giáo. Thế nhưng, tuy là một thần của Đạo giáo, khi đi vào dân gian, Huyền Vũ (Huyền Thiên) được Việt hóa thành một vị thần đã từng giúp An Dương Vương trừ tà ma quấy rối trong công việc xây dựng thành Cổ Loa, được lập đền thờ ở núi Sái, làng Thụy Lôi, huyện Đông Anh. Ngoài ra, thần còn thường du ngoạn ở vùng Hồ Tây, trừ hồ tinh chín đuôi quấy phá dân lành. Như vậy truyện thần Trấn Vũ đã kết hợp thần thoại Việt với thần thoại Trung Quốc, gắn với thành Cổ Loa, toà thành phòng ngự chống ngoại xâm đầu tiên ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. Với nguồn gốc như vậy, đời Lý, vua Lý Thái Tổ đã cho xây ở phía Bắc tòa thành Thăng Long đền thờ Trấn Vũ để trấn tà khí từ phương Bắc tràn xuống. Đây là một nét độc đáo trong văn hoá dân gian xưa, dùng ngay thần phương Bắc đã hội nhập vào văn hoá nước nhà chống lại tà khí phương Bắc. Đền được phong là một trong "Thăng Long tứ trấn" từ thời Lý. Đến thời nhà Lê, các vua cũng thường đến đây để cầu ma mỗi khi có hạn hán, những lời khấn thần còn ghi trong Thiên Nam Dư hạ tập.



    Kiến trúc



    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đền Trấn Vũ - Ảnh tư liệu[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Đền có từ thời Lý Thái Tổ (1010 - 1028) và đã trải qua nhiều lần xây dựng, sửa chữa. Diện mạo hiện nay là kết quả của lần sửa chữa vào đời Thành Thái thứ 5 (1893). Trong đền có tượng Trấn Vũ (Quán Thánh) đặt ở chính giữa hậu cung. Tượng đúc bằng đồng đen vào năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), đời Lê Hy Tông, do Trịnh Tạc đứng ra làm với ý nghĩa trả công đức Thần báo mộng, giúp chúa dẹp được họ Mạc ở Hải Phòng. Sách cũ ghi là tượng cao 8 thước 2 tấc và nặng 6600 cân, so với đo lường ngày nay thì cao khoảng 3,9m và nặng khoảng 4 tấn. Thân tượng nở nang, cân đối, mang dáng dấp một võ tướng. Tượng có dáng đạo sĩ, xõa tóc, chân không giày dép, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm có rắn quấn quanh và ngồi trên lưng rùa. Theo truyền thuyết, rắn và rùa là hai con vật tượng trưng cho thần trấn phương Bắc. Tượng Trấn Vũ được xem là một công trình điêu khắc độc đáo tại Việt Nam, đánh dấu kĩ thuật đúc đồng và tạc tượng hết sức tài hoa của những nghệ nhân Việt Nam từ thế kỷ XVII. Tượng Trấn Vũ (còn gọi là tượng Huyền Thiên Trấn Vũ, tượng Quán Thánh) là một bảo vật của quốc gia, một trong "tứ đại khí" của kinh thành Thăng Long.
    Tại nhà bái đường còn một pho tượng nữa, nhỏ hơn, cũng bằng đồng đen. Nhiều người cho rằng đây là tượng ông Trùm Trọng, người thợ cả đã chỉ huy việc đúc pho tượng Trấn Vũ. Tượng này là do các học trò của ông đúc để ghi nhớ công ơn của thầy. Ngoài ra, đền còn có quả chuông cao gần 1,5m treo ở gác tam quan, tương truyền được đúc cùng lúc với pho tượng Trấn Vũ. Tiếng chuông này đã trở nên quen thuộc với cư dân quanh vùng và đi vào câu ca dao xưa:
    Gió đưa cành trúc la đà
    Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ thờ trong đền - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Văn bia tại đền do Trạng nguyên Đặng Công Chất và Tiến sĩ Hồ Sĩ Dương soạn. Thời Tây Sơn, Ðô đốc Lê Văn Ngữ, cùng nhiều người nữa đã quyên tiền đúc chiếc khánh bằng đồng (1,10 x 1,25m) vào năm Cảnh Thịnh thứ hai. Đến đời Nguyễn, vua Minh Mạng đến thăm đền, đã cấp tiền tu sửa. Năm 1923, đền được đổi là Trấn Vũ quán. Năm 1856, Bố chánh Sơn Tây là Phạm Xuân Quế, Bố chánh Hà Nội là Tôn Thất Giáo, Tri huyện Vĩnh Thuận là Phan Huy Khiêm đã tổ chức quyên góp trùng tu, sửa lại chính điện, đình thiêu hương, bái đường và gác chuông, làm thêm hai dãy hành lang bên phải và bên trái, đắp lại 4 pho tượng đại nguyên soái, tượng thần Đương Niên hành khiển, Văn Xương Đế Quân và dời xuống hậu đường phía sau. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm và dâng một đồng tiền vàng, cộng với số tiền vàng do các hoàng thân dâng, đúc lại thành vòng xâu giữa sợi dây bạc để treo ở cổ tay tượng thần. Đằng sau đền lại được đắp hòn núi non bộ trong một bể con và dựng một đền nhỏ gọi là Vũ Đương Sơn. Khi đền được sửa chữa xong vào năm 1893 thì được dựng thêm bia do tiến sĩ Lê Hy Vĩnh soạn. Đền hiện nay có 6 bia. Kiến trúc, trang trí của đền mang phong cách đời Nguyễn.
    Đền Trấn Vũ, ngoài nổi tiếng là một trong Thăng Long tứ trấn và tượng Trấn Vũ, chuông đồng, còn nổi tiếng với vẻ đẹp của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Trên các bộ phận kiến trúc bằng gỗ của ngôi đền có các đề tài như tứ linh, dơi, cá, mai, lan, cúc, trúc, lẵng hoa, bầu rượu, thanh gươm, cảnh sinh hoạt của trần gian và thượng giới... đều được chạm khắc một cách tinh xảo, mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê.
    Ngày nay, đền Trấn Vũ không chỉ là một địa điểm linh thiêng của Hà Nội mà còn là một trong những nơi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng nổi tiếng của người dân thủ đô.






    ---------- Post added at 04:11 PM ---------- Previous post was at 04:10 PM ----------

    [h=4]Đền Trấn Vũ - Thạch Bàn - Gia Lâm - thành phố Hà Nội
    [/h]



    Xưa nay, khi nhắc đến đền Trấn Vũ, mọi người thường nói nhiều về đền Trấn Vũ (còn gọi là đền Quán Thánh) ở góc đường Thanh Niên, Quán Thánh (phường Quán Thánh, quận Ba Đình) mà ít ai biết rằng ở xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội cũng có một đền Trấn Vũ, thường được gọi là "Hiển linh Trấn Vũ quán".

    Lịch sử và truyền thuyết



    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Cổng Tam quan đền Trấn Vũ - Ảnh: Hoàng Chí Hùng [/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Đền Trấn Vũ là một di tích rất nổi tiếng của làng Ngọc Trì, ở ngay ven đê, xưa thuộc xã Cự Linh, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Đền được dựng trên thế đất “Quy Xà” (Rùa - Rắn - một yếu tố sông nước), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ. Địa thế của đền vừa thể hiện việc tôn sùng yếu tố sông nước, vừa mang yếu tố của Đạo giáo. Sự tích về Huyền Thiên Trấn Vũ có nhiều dị bản khác nhau, nhìn chung đều là thần của Đạo giáo, là biểu tượng cho mùa Đông, có sứ mệnh dẹp trừ yêu quái, trấn giữ phương Bắc (vì thế, các đền hay quán thờ Thần thường nhìn hướng Bắc), bảo vệ cuộc sống yên lành cho dân. Thần thường ngồi trên gò Kim Quy.
    Đền Trấn Vũ ở làng Ngọc Trì chưa rõ được dựng từ bao giờ. Bia về sự tích của Thần dựng năm Mậu Thìn đời Bảo Đại (năm 1928) khẳng định đền có từ thời Thục Phán An Dương Vương và Thần đã được phong là Thượng đẳng thần. Thế kỷ XV, vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497) có lần đi chinh phạt Chiêm Thành đã đóng quân ở xã Cự Linh, được Thần ứng mộng sẽ chiến thắng nên cho dựng đền, tạc tượng gỗ để thờ, bài vị có ghi chữ vàng “Hiển linh Trấn Vũ quán”. Đến thế kỷ XVII, đền được sửa lại. Dấu tích có thể nhận biết được qua tấm bia Cự Linh tự Trấn Vũ quán trùng tu bi ký. Tuy nội dung bia và dòng lạc khoản bị mờ nhưng trán và diềm bia mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII. Đến năm Mậu Thân, đời vua Lê Hiển Tông (năm 1788), tượng gỗ bị hỏng, triều đình lệnh cho quan viên cùng sắc mục làng Ngọc Trì đúc tượng đồng. Sự kiện này được phản ánh trong một tấm bia khác còn lưu trong đền. Đến năm Nhâm Thân đời Bảo Đại (năm 1932), đền được sửa lại tượng và Thượng cung, các năm sau lần lượt sửa Trung cung và Tiền đường, đến năm thứ 13 (năm 1938) thì hoàn thành. Như vậy, các bộ phận hợp thành của Trấn Vũ quán làng Ngọc Trì được sửa lại vào những năm gần cuối của triều Nguyễn.
    Đền Trấn Vũ nay dùng làm nơi thờ nhiều vị là do chùa, đình, nghè bị chiến tranh tàn phá nên nhân dân trong làng rước bài vị về đây thờ chung.



    Kiến trúc



    Đền Trấn Vũ được xây dựng trên thế đất quy xà hội tụ, phía trước là cánh đồng rộng mênh mông. Trên đồng nổi lên một gò đất như hình mai rùa, phía sau đền chính là đê sông Hồng trông tựa hình rồng đang uốn lượn. Đền quay về hướng Bắc, cùng hướng với đền Quán Thánh ở Ba Đình.
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Khuôn viên bên trong đền - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Đền có bố cục trong tổng thể tiền Thần, hậu Phật, nay chùa đã bị đổ nát. Phía trước đền là hồ bán nguyệt, sân đền có hai cột trụ cao, hình vuông, đỉnh cột đắp hai con sấu chầu vào nhau, trên bốn mặt trụ có các hình long, ly, quy, phượng... đắp nổi trang trí. Xưa kia thân cột còn có những câu đối nhưng thời gian đã bào mòn. Kiến trúc của đền gồm có 2 toà hình chữ nhị và có chuôi vồ hai tầng nối đằng sau. Từ cửa đền, qua sân gạch nhỏ là đến tiền tế. Hàng hiên nhà tiền tế là bốn cột đá xanh vuông, chân cột phình to. Tiền đường gồm năm gian, ba gian giữa nền gạch thấp như nền hiên làm nơi hành lễ, nền hai gian bên cao hơn nửa mét so với nền gian giữa làm nơi tiếp khách, thụ lộc. Các cột cái gian tiền đường bề thế, đứng trên bệ đá tạo sự chắc chắn và tôn vẻ uy nghiêm cho ngôi đền. Bộ vì nhà tiền đường, làm kiểu chồng rường, giá chiêng, đặt trên quá giang. Đầu kẻ của bộ vì giữa bên trái chạm rồng, các con rường chạm mây lá đơn giản. Chân cột hiên nhà tiền đường làm bằng đá xanh vuông, xung quanh trang trí rồng lá, đầu cột chạm hình lá sồi. Sau tiền đường là trung đường 5 gian, 2 dĩ. Trên các bức cốn chạm rồng mây. Ðây còn là nơi đặt ngai, tượng võ sĩ đá, tượng Phật ở các nơi mang về và đều có niên đại cuối TK 19, đầu thế kỉ XX. Sau cùng là thượng cung nối với trung đường bằng một nhà cầu. Thượng cung gần vuông, xây 2 tầng, 8 mái khá đẹp. Đây là nơi đặt pho tượng đồng Trấn Vũ cao 3,8m, chu vi 8m, nặng 4 tấn. Tượng trong tư thế ngồi buông chân, mắt nhìn thẳng, tay phải đặt trên đốc kiếm, chống lên lưng rùa, tay trái bắt quyết, giơ ngang ngực. Diềm áo đúc nổi hoa lá, bố tử chạm hình long mã, các nếp áo bó sát thân nhưng vẫn mềm mại, tạo cho tượng sống động, đầy uy lực. Hai bên tượng Trấn Vũ có hai hàng tượng 12 vị nguyên soái bằng đất đứng chầu. Trong đền còn có bài vị của Linh Lang đại vương - thành hoàng làng Ngọc Trì, do đình làng không còn nên nhân dân chuyển sang thờ ở đây. Chính giữa phía sau tượng có bài vị khắc chữ "Hiển linh Trấn Vũ quán". Theo tấm bia kí ở đền cho biết, trải qua 14 năm, từ năm 1788 đến 1802, nhân dân ở đây mới đúc xong tượng. Trên bia ký tại đền có ghi: “Đến tiết Đông chí năm Mậu Thân (1788) khởi công đúc lại tượng đồng, lòng thành u tối được chứng giám. Hai bên hợp lại, của cải sức dân dùng không kể. Đến tháng tám năm Nhâm Tuất (1802) mọi người tới họp mặt, thấy vàng bọc ngoài tượng lấp lánh, chất ngọc rực rỡ. Xét thấy có thể lưu truyền vẻ lẫm liệt muôn đời, thỏa lòng mong đợi của nhân dân khắp nơi”. Pho tượng này, về cơ bản giống pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Quán Thánh, chỉ khác một chi tiết duy nhất, ấy là khi nhìn trực diện vào khoảng đầu gối tượng, có họa tiết hoa sen được cách điệu thành hình mặt hổ phù. Có thể nói, tượng đồng Trấn Vũ là một tuyệt tác của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Tây Sơn. Xét về kích cỡ, tượng đứng hàng thứ 3 sau pho tượng Phật ở chùa Ngũ Xã và chùa non Nước trên núi huyện Sóc Sơn.
    Đền đã được nhà nước xếp hạng di tích nghệ thuật kiến trúc ngày 27/12/1990.



    Lễ hội



    Hàng năm, vào các ngày mồng 3 tháng Ba (ngày sinh của Thần) và mồng 9 tháng Chín (ngày hóa), dân làng Ngọc Trì tổ chức hội. Ngoài tế lễ, hội còn có trò kéo co luồn dây qua cột. Trai đinh các giáp cởi trần, đóng khố điều, chít khăn điều, chia thành hai phe : phe Mạn đường và phe Mạn chợ, mỗi phe có một tổng cờ (mặc áo đỏ, chít khăn đỏ) chỉ huy. Sau lễ trình thánh, dưới sự điều khiển của vị tiên chỉ làng (mặc áo thụng xanh, đội mũ tế, tay cầm trống khẩu làm hiệu lệnh), trai đinh hai phe tiến hành kéo co qua một dây song to, nhẵn, dài 30 mét. Cột mốc là một cột trụ bằng lim, to như cột đình, chôn chặt xuống đất. Sợi dây song được luồn qua một lỗ của cột lim (từ lỗ xuống mặt đất cao bằng đầu gối người lớn). Trai đinh mỗi phe một đầu dây, từng người nắm dây ở các tư thế khác nhau. Sau khi có hiệu lệnh, hai Tổng cờ hô và quệt lá cờ lệnh vào mặt các trai kéo của phe mình để thúc giục họ kéo dây. Các bà, các chị của từng phe dùng quạt, khăn lau chăm sóc trai đinh phe mình. Hai bên kéo cho đến khi ngã ngũ. Theo quan niệm của dân làng, nếu phe Mạn đường (mạn gốc) thắng thì năm đó làng có phúc lớn. Đây là trò chơi dân gian độc đáo, ít thấy ở vùng châu thổ Bắc Bộ.






    ---------- Post added at 04:11 PM ---------- Previous post was at 04:11 PM ----------

    [h=4]Đền Kim Ngưu
    [/h]




    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đền Kim Ngưu - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Kim Ngưu là một ngôi đền ở xã Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Đền thờ Trâu Vàng. Theo truyền thuyết thì hồ Tây do Trâu Vàng chạy, vết chân trâu tạo thành hồ nên xưa có tên là hồ Trâu Vàng.
    Sách Lĩnh Nam chích quái cũng có nhắc đến lai lịch của Trâu Vàng, đó là trong truyện Hồ Tinh, sau khi kể chuyện Lạc Long Quân diệt cáo chín đuôi, truyện trên đã kết thúc là "Sau lập miếu Kim Ngưu để trấn áp yêu quái". Một lần khác truyện Trâu Vàng xuất hiện trong Lĩnh Nam chích quái là truyện Con Trâu Vàng ở huyện Tiên Du. Nội dung truyện kể rằng: "Ở núi Tiên Du có tinh Trâu Vàng Kim Ngưu nửa đêm thường toả sáng. Có nhà sư lấy tích trượng yểm lên trán trâu. Trâu bỏ chạy, húc đầu vào đất sụp thành hồ. Nơi đó là thôn Húc sau này. Trâu chạy qua địa phận Văn Giang, qua các xã Như Phượng, Như Loan, Đại Lan, Đa Ngưu ... Trâu lại chạy từ trong bến ra sông Cái, đến Ninh Giang, đi men phủ Lý Nhân, theo ven sông Cái tới Tô Lịch, chỗ ấy chính là Tây Hồ. Thuở ấy Cao Biền hay cưỡi diều bay trên không để yểm các thắng cảnh. Biền thấy trâu đi vào hồ Dâm Đàm, nay là Tây Hồ rồi không thấy đâu nữa".
    Các sách Thăng Long cổ tích khảo, Tây Hồ chí cũng có nhắc đến sự tích Trâu Vàng tương tự như Lĩnh Nam chích quái. Tuy nhiên, sự tích này có khác với truyền thuyết Trâu Vàng và Khổng Minh Không.
    Xét sâu xa thì có lẽ truyền thuyết Trâu Vàng có nguồn gốc từ sự giao thoa văn hoá giữa các dân tộc Bách Việt và các tộc phi Hán thuở xưa. Và từ truyền thuyết dân gian, hình tượng Trâu Vàng trở thành một biểu tượng thiêng liêng có khả năng trừ ma quái, bảo vệ dân lành. Tín ngưỡng thờ Trâu Vàng là một tín ngưỡng tích cực phù hợp với nguyện vọng cầu mong một cuộc sống yên ổn của nhân dân Việt Nam xưa. Đền thờ Trâu Vàng bên bờ hồ Tây là một biểu hiện vật chất của tín ngưỡng và nguyện vọng đó.
    Ngôi đền là một công trình kiến trúc có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao trong quần thề di tích và danh thắng Phủ Tây Hồ. Kiến trúc đền được xây dựng theo kiểu chữ Đinh, có cổng tứ trụ. Trong đền hiện còn 32 đạo sắc phong cho thần Kim Ngưu từ thời Lê đến thời Nguyễn.
    Đền thờ Trâu Vàng - đền Kim Ngưu bị đạn đại bác của Pháp phá huỷ vào năm 1947. Đến năm 2000, đền đã được xây dựng lại khang trang, bề thế, tăng thêm giá trị văn hoá và du lịch cho quần thể di tích Phủ Tây Hồ.




    ---------- Post added at 04:12 PM ---------- Previous post was at 04:11 PM ----------

    [h=4]Đền Đồng Cổ - phường Bưởi - Tây Hồ - Thành phố Hà Nội
    [/h]




    Đền Đồng Cổ tọa lạc ở làng Đông, nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, nằm sát bờ sông Tô Lịch. Sách Việt điện u linh kể lại rằng trong một lần đi dẹp giặc ở phía Nam vào năm 1020, thái tử Phật Mã (sau này là vua Lý Thái Tông) có nghỉ ở đền núi Đồng Cổ thuộc làng Đan Nê (nay thuộc xã Yên Thọ, huyện Yên Định, Thanh Hóa) được thần báo mộng xin đi theo quân để trừ giặc. Lần đó thái tử thắng trận trở về, đến núi Đồng Cổ làm lễ tạ.
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đền Đồng Cổ đang được tu bổ, tôn tạo nhân dịp kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Sách Toàn thư kể thêm: Tám năm sau, năm 1028, trước hôm Lý Thái Tổ qua đời một ngày, Phật Mã lại được thần Đồng Cổ báo mộng rằng có ba tước vương sẽ nổi loạn. Quả nhiên sáng hôm sau Thái Tổ vừa tắt thở, ba con trai là ba Vương Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức đưa quân vào ém trong Cấm Thành toan đánh úp. Thái tử do có phòng bị và có các tướng Lê Phụng Hiểu, Lê Nhân Nghĩa dẹp được cuộc nổi loạn này. Mười ngày sau khi đã lên ngôi, ông cho xây ngay một đền thờ thần Đồng Cổ ở bên phải Hoàng thành, phía sau chùa Thánh Thọ và quyết định lấy ngày 25 tháng ấy tiến hành hội thề tại đó. Trước đền đắp một dàn cao, xung quanh cờ xí rợp trời, đội ngũ tề chỉnh, giáo gươm rợp đất. Giữa đàn là bài vị thần Đồng Cổ có lò hương nghi ngút, có quan Giám thệ điều khiển hội thề. Bách quan văn võ từ phía Đông đi vào đến trước đàn, quỳ trước thần và đọc lời thề: "Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh sẽ giết chết". Về sau, vì trùng với ngày kị với một vị vua đời Lý nên hội thề chuyển sang mùng 4 tháng 4 và giữ đến ngày nay.
    Như vậy, đền Đồng Cổ bên bờ hồ Tây là một không gian thiêng liêng của Kinh đô Thăng Long, trở nên quan trọng hơn chính ngôi đền "nguyên mẫu", tức đền Đồng Cổ ở Thanh Hóa.
    Ở hai cột hoa biểu của cửa đền có 2 câu đối:
    Bát diệp sơ, Đồng Cổ sơn ngôn, lịch đại bao phong lưu ngọc điệp
    Thiên tải hậu Chu Bàn hải thệ, nhất tâm trung hiếu phụng kim chương
    Dịch nghĩa:
    Tám đời vua Lý, Đồng Cổ lời xưa, các triều phong thần còn lưu sắc ngọc
    Ngàn năm từng trải, Đàn Thề ghi tạc, một lòng trung hiếu vẫn gợn ánh vàng



    Loại
    Đền

    Địa chỉ hiện nay
    Yên Thọ - Yên Định - Thanh Hoá


    Mục lục
    [Ẩn]

    1 Vị trí
    2 Truyền thuyết
    3 Cảnh quan - kiến trúc



    [h=4]Đền Đồng Cổ - Yên Thọ - Yên Định - Thanh Hoá[/h]





    Vị trí



    Ðền Ðồng Cổ thuộc thôn Ðan Nê, xã Yên Thọ, huyện Yên Ðịnh, tỉnh Thanh Hoá. Một trong những di tích nổi tiếng của xứ Thanh, nơi vừa có phong cảnh hữu tình, vừa có những huyền thoại gắn với nhiều giai đoạn trong lịch sử đất nước.



    Truyền thuyết



    Tương truyền, có một vị vua khi đi đánh giặc qua đây có nghỉ lại một đêm trên bến Trường Châu ở khúc sông Mã gần đền (có sách nói là vua Lý Thái Tông, cũng có nguồn cho là vua Hùng Vương đời thứ nhất đi dẹp ngoại xâm). Trong giấc chiêm bao, vua được một vị thần xưng là Ðồng Cổ báo mộng bày cách dẹp giặc loạn. Khi vua tỉnh giấc còn nghe vang vọng tiếng chuông đồng vọng từ ngôi đền dưới chân ba ngọn núi.
    Theo báo mộng của thần, khi ra trận vua cho dùng dùi đồng gõ vào trống đồng, giặc loạn sợ hãi bỏ chạy. Nhà vua sau đó đã quay lại để tạ ơn thần và cho tu bổ đền khang trang hơn. Tên đền Ðồng Cổ được dân làng gọi theo từ đó.
    Vua Lý Thái Tông còn cho rước thần Ðồng Cổ từ Ðan Nê về lập đàn thề trên đất Thăng Long, lại phong cho thần chức quan "chủ trì việc thề trong cả nước".



    Cảnh quan - kiến trúc



    Trước cửa đền, bên kia chiếc hồ bán nguyệt, có hai tấm bia trên vách đá núi Xuân. Một tấm bằng chữ Hán khắc lại bài văn bia do Nguyễn Quang Bàn viết năm 1802, ca ngợi phong cảnh sơn thủy hữu tình của nơi đây và kể lại chuyện một chiếc trống đồng cổ được tìm thấy và cúng tiến vào đền. Tấm kia bằng tiếng Pháp, khắc năm 1889, nội dung chép lại bài văn dân làng Ðan Nê tỏ lòng sùng kính với ngôi đền.
    Tấm bia chữ Hán chép rằng, năm Canh Tuất (1790) Tuyên công Nguyễn Quang Bàn (con vua Quang Trung) vâng mệnh vua cha vào làm quan đặc sai đốc trấn Thanh Hóa. Một đêm nọ, ông nghỉ tại xã Ðan Nê, có vào cầu khấn trong miếu thờ Ðồng Cổ Sơn Thần. Sau đó ứng nghiệm bằng việc ông bỗng thấy bên bờ Nam sông Mã xuất lộ một chiếc trống đồng cổ rộng 9 thước, cao 4 thước. Năm Nhâm Tuất (1802) lại có dịp đi qua miếu, Nguyễn Quang Bàn sai đem chiếc trống đồng tìm được dạo trước hiến cho đền, đồng thời viết bia (lúc đó là bia gỗ) ghi lại để đời sau được rõ.
    Theo những người cao tuổi trong làng Ðan Nê, đền Ðồng Cổ từng có 38 gian, bề thế tựa lưng vào Tam Thái Sơn (dân làng gọi một cách dân dã là dãy núi Ðổng).
    Những di tích nguyên gốc còn lại đến nay, ngoài hai tấm bia kể trên, chỉ còn chiếc miếu nhỏ lưng chừng đỉnh núi Xuân và chiếc cổng Nghinh môn nằm ở phía Tây ngôi đền.
    Nghinh môn gồm 3 tầng, 8 mái, mang phong cách kiến trúc thế kỷ 15 (thời Lê), cao 9m, rộng 3m, được ghép bằng những khối đá vuông vức (không dùng vữa), cuốn thành vòm tò vò.
    Nơi đây, thời gian như được cô đặc lại từ lịch sử mấy ngàn năm tồn tại của ngôi đền, rắc lên đó một màn sương những câu chuyện huyền thoại.




     
  7. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền Hương Tượng
    [/h]



    Đền Hương Tượng là một trong bảy ngôi đền thờ Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn tại Hà Nội và là một trong ba ngôi đền còn tồn tại đến ngày nay. Đền hiện toạ lạc tại địa chỉ 64 Mã Mây, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Xưa kia, nơi đây là khu vực thuộc giáp Hương Tượng, phường Giang Khẩu, sau đổi thành Hà Khẩu, tổng Hữu Túc. Đến thời Nguyễn đổi là tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức.

    Tiểu sử Nguyễn Trung Ngạn


    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Cổng đền Hương Tượng - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370), tên tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là Ân Thi), tỉnh Hưng Yên. Năm 1300, khi mới 12 tuổi, ông đã được vào học nhà Thái học (tức Quốc Tử giám). Năm 16 tuổi, ông đỗ Hoàng Giáp khoa thi Thái học sinh năm Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1034) đời Trần Anh Tông, nổi danh thần đồng. Đây là khoa thi sau 30 năm nền khoa cử nhà Trần bị tạm ngưng do đất nước chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285) và lần thứ 3 (1288). Khoa thi này có Mạc Đỉnh Chi đậu Trạng nguyên, Bảng nhãn Bùi Mộ, Thám hoa Trương Phóng và một vị Hoàng giáp là Nguyễn Trung Ngạn.
    Tháng 3 năm Giáp Dần niên hiệu Hưng Long thứ 22 (1314), Trần Anh Tông nhường ngôi cho Trần Minh Tông, đổi niên hiệu là Đại Khánh năm thứ 1. Tháng 10 năm ấy, sứ giả nhà Nguyên hay tin nên sang làm lễ đọc Quốc thư. Chính vì sự kiện này, nên ngay vào cuối năm Giáp Dần, triều Trần cử Nguyễn Trung Ngạn và Phạm Mại sang nhà Nguyên đáp lễ.
    Năm 1321, Nguyễn Trung Ngạn được giữ chức Ngự sử đài Thị ngự sử. Sau đó, vì bàn trái ý vua nên ông bị đổi ra làm thông phán ở châu Viêm Lãng. Ở đấy, ông được tiếng là giỏi chính sự nên ít lâu sau lại được thăng lên làm Thiêm tri cung Thánh từ.
    Năm 1326, Nguyễn Trung Ngạn bị đổi ra làm An Phủ sứ Thanh Hoá. Một thời gian sau, ông lại về triều giữ chức Thiêm tri. Từ thời gian này, ông theo phò tá Thượng hoàng Trần Minh Tông đi tuần thú các nơi và đánh giặc Ai Lao.
    Tháng 9 năm Đinh Sửu (1337), Nguyễn Trung Ngạn được đổi sang làm An phủ sứ Nghệ An, kiêm Quốc sử viện Giám tu quốc sử, hành Khoái Châu lộ Tào vận sứ. Mùa xuân năm Tân Tị (1341), ông được gọi về kinh giữ chức Đại doãn Kinh sư Thăng Long. Tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1342), Nguyễn Trung Ngạn được phong chức Hành khiển tri Khu mật viện sự. Năm 1351, triều đình lại thăng chức ông là Nhập nội Hành khiển. Nguyễn Trung Ngạn còn được vua ban cho mặc chiến bào, đội mũ võ, đeo thẻ bài gỗ, nghiên vàng để duyệt cấm quân, định loại hơn kém khi vua duyệt cấm quân ở Long Trì.
    Không chỉ làm quan đến chức Tể tướng (Nhập nội Hành khiển) mà Nguyễn Trung Ngạn còn để lại một sự nghiệp trước tác đáng ghi nhận với các bộ sách Hoàng triều đại điển và Hình luật thư. Ông cũng là một thi sĩ có tài, là một nhà ngoại giao nhạy bén, sáng suốt . Về nhân cách, Nguyễn Trung Ngạn có đủ cả 3 phẩm chất của bậc chính nhân quân tử Nho giáo là Nhân - Trí - Dũng.
    Hiện nay ở Hà Nội có tất cả 7 đền thờ ông, đều thuộc vùng bến Giang Tô cũ (tương truyền là khu vực nhà của Nguyễn Trung Ngạn ở Thăng Long), gồm:
    - Đền Tiên Hạ ở 46A Ngõ Phất Lộc
    - Đền Hương Tượng ở 64 Mã Mây
    - Đền Hương Nghĩa ở 13B Đào Duy Từ
    - Đình Mỹ Lộc ở 45 Nguyễn Hữu Huân
    - Đình Hương Bài ở 90 Trần Nhật Duật
    - Đình Ưu Nghĩa ở 2A Nguyễn Hữu Huân
    - Đình Phúc lộc ở 6 Lương Ngọc Quyến.



    Kiến trúc


    Di tích đền Hương Tượng hiện được bảo tồn khá tốt. Đền được xây dựng theo hướng Tây, trông ra phố Mã Mây. Các công trình kiến trúc của đền được tập trung trong một khoảng không gian thoáng mát, ẩn mình dưới gốc cây si già cổ thụ quanh năm tán phủ um tùm. Các bộ phận cấu thành di tích bao gồm: Một cổng nhỏ phía trước sân, sân gạch phía sau, tiếp theo là khu kiến trúc chính. Đền có quy mô kiến trúc kiểu hình ống, đặc trưng của khu phố cổ Hà Nội gồm Phương đình, Trung tế và Hậu cung.
    Mở đầu khu di tích là cổng đền. Ðây là một kiến trúc gạch nhỏ. Phần mái làm kiểu hai tầng mái đắp giả ngói ống, các góc mái được tạo cong hình mũi thuyền. Chính giữa bờ nóc đắp cao hình mặt trời lửa, hai bên có rồng chầu vào. Phần khung chữ nhật bên dưới ghi tên di tích bằng chữ Hán "Hương Tượng linh từ".
    Qua cổng là một khoảng sân hẹp lát gạch. Bên trái đền, dưới gốc si già có hai am nhỏ thờ Mẫu Cửu Thiên và Cô, Cậu. Tiếp đến là một gian đổ mái bằng dùng làm nơi tiếp khách. Phía bên phải để thờ Mẫu.
    Khu chính gồm ba dãy nhà ngang tạo thành, giống nhau cả về kích thước lẫn kiểu dáng. Cả ba nếp nhà này đều có bố cục mặt bằng 1 gian 2 dĩ, mái lợp ngói ta. Phần ranh giới giữa các mái được làm khít nhau, phía dưới là hệ thống máng xối thoát nước. Phía trước nhà tiền tế kéo dài 2m thành hàng hiên rộng có mái dốc, gồm hai bộ vì kết cấu kiểu chồng rường, trên các con rường được trang trí các đề tài hoa lá.
    Cấu trúc bộ khung gỗ nhà Phương đình bao gồm hai bộ vì chính, được làm thống nhất theo kiểu giá chiêng. Những chi tiết cấu trúc và trang trí mang phong cách nghệ thuật thế kỉ XIX. Trong nhà tiền tế, tại gian giữa phía ngoài được tôn nền cao 20cm để làm chỗ ngồi, bên trong xây bệ gạch cao làm nơi đặt tượng. Tại vị trí cao nhất là bộ tượng Ngũ vị Tôn Ông đặt trong khung kính, hàng dưới là ông Hoàng Bảy, Hoàng Mười. Bên trái nhà Phương đình là động Sơn Trang.
    Nối nhà Phương đình và Hậu cung là Trung đường, mái lợp ngói ta dạng bán mái. Chính giữa nhà trung đường xây một bệ gạch cao 150cm, rộng 240cm. Bên trên đặt tượng Trần Hưng Đạo. Bên ngoài khám, hai bên có tượng hai ông phỗng được tạo trong tư thế quỳ, hai tay chắp trước ngực.
    Hậu cung gồm một gian hai dĩ có kích thước chiều ngang tương ứng với nhà Phương đình và Trung đường. Phần mái cao vượt lên so với nhà Phương đình 50cm. Nhà có bốn bộ vì làm thống nhất theo kiểu "giá chiêng chồng rường con nhị". Phía trước Hậu cung, tại gian giữa mở cửa bức bàn làm kiểu "Thượng song hạ bản". Chính giữa hậu cung là một sàn gỗ cao 148cm, rộng 240cm, ván bưng ba mặt, bên trong bài trí hai bộ long ngai, bài vị thờ thần Nguyễn Trung Ngạn có mỹ tự là: Tử Y tối linh vương vị và Thần Y tối linh công chúa. Sát tường hậu về phía bên trái được đặt ba tấm bia đá ghi công đức những người đã bỏ tiền của ra tu bổ ngôi đền (chưa rõ lai lịch vị công chúa được thờ ở đó). Di tích đền Hương Tượng còn bảo lưu bộ di vật văn hoá lịch sử với nhiều chủng loại và chất liệu khác nhau, thông qua những di vật này phần nào cho chúng ta thấy được lịch sử của ngôi đền. Các di vật bao gồm:
    - 1 bản thần tích, nội dung ghi chép sự tích của thần
    - 1 hòm sắc phong, trong đó có 6 đạo sắc phong thần qua các đời:
    Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783)
    Chiêu Thống năm thứ nhất (1787)
    Quang Trung năm thứ 4 (1791)
    Cảnh Thịnh năm thứ nhất (1793)
    Tự Đức năm thứ 18 (1865)
    Khải Định năm thứ 9 (1924) - 2 đạo
    - 5 tấm bia đá, bia sớm nhất có niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 3 (1737). Đặc biệt tấm bia Hương Tượng giáp trùng tu bi kí có niên hiệu Minh Mạng năm thứ 6 (1825) có nội dung ghi việc công đức tu sửa đền qua các năm, bia còn ghi các tiết lễ phụng sự: ".... Miếu Tử Y Đại Vương của giáp ta sáng lập từ triều Trần đến nay hơn 400 năm, tưởng rằng từ khi các bậc tiên hiền của giáp ta bỏ tiền của ra làm phía trong là Thần điện, trước Thần điện là Trung điện, trước Trung điện là Tiền điện liền nhau đều là nhà ba gian. Bên ngoài là cửa, xung quanh xây từng gạch, giáp ta quanh năm thờ cúng".
    Khi nói về đợt trùng tu năm Giáp Thìn, niên hiệu Thành Thái năm thứ 16 (1904), tác giả văn bia cho biết thêm: "Ngôi đình của giáp ta sáng lập từ triều Trần, trang nghiêm, rộng rãi. Phía trên để thờ các vị phúc thần, phía dưới để thờ các vị anh hùng dân tộc...". Như vậy có thể thấy di tích đền được khởi dựng từ triều Trần. Trải qua các triều vua đều được sắc phong. Đền được trùng tu sửa chữa nhiều lần qua các năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737), Gia Long thứ 14 (1815), Minh Mạng thứ 5 (1824) trùng tu nghi môn, Minh Mạng năm thứ 6 (1825) trùng tu ba gian miếu, Tự Đức (1848 - 1883), Thành Thái năm thứ 16 (1904).
    Diện mạo ngôi đền hiện nay mang dấu ấn của lần trùng tu cuối cùng vào triều Nguyễn.
    Ngày nay, đền Hương Tượng là nơi bảo lưu những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc và cũng là một di tích có giá trị về mặt lịch sử - văn hoá, kiến trúc - nghệ thuật. Đây là một trong những điểm văn hoá hấp dẫn trong tuyến tham quan du lịch các di tích tiêu biểu của khu phố cổ Hà Nội.





    ---------- Post added at 04:12 PM ---------- Previous post was at 04:12 PM ----------

    [h=4]Đền Voi Phục
    [/h]Đền Voi Phục (còn gọi là đền Thủ Lệ) là một di tích lịch sử của Hà Nội cổ, được dựng ở góc phía Tây Nam thành Thăng Long xưa, thuộc địa phận làng Thủ Lệ, nay là công viên Thủ Lệ, phường Cầu Giấy, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đền thờ Linh Lang Đại vương, là một trong "Tứ trấn Thăng Long". Ngoài cửa đền có đắp hai con voi quỳ phục dưới đất nên gọi là đền Voi Phục. Xưa trước cửa đền có hồ rộng dài, cũng gọi là hồ Linh Lang. Tương truyền thuyền rồng nhà vua có thể từ hoàng cung đi tới khu vực đền bằng đường này.
    Lịch sử và truyền thuyết



    Đền Voi Phục là một trong "Thăng Long tứ trấn", được xây dựng từ năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 7 (1065) đời Lý Thánh Tông. "Thăng Long tứ trấn" là bốn ngôi đền thờ bốn vị thần ngự từ xa xưa, ngày đêm canh giữ cho kinh thành bình yên và thịnh vượng. Đó là :
    - Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, trấn phương Đông.
    - Đền Voi Phục (Thủ Lệ) thờ Linh Lang Đại vương, trấn phương Tây.
    - Đền Trấn Vũ (còn gọi là quán Trấn Vũ hay đền Quán Thánh) thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, trấn phương Bắc.
    - Đền đình Kim Liên thờ thần Cao Sơn, trấn phương Nam.
    Đền thờ Linh Lang Đại vương. Thần Linh Lang là một cái tên chung của nhiều ông thần trong các đền miếu nước ta. Thần Linh Lang vương được nhân dân tôn thờ ở khá nhiều đền, đình khác nhau trên mảnh đất Thăng Long như Kim Mã, Cống Vị, Liễu Giai… và ở các tỉnh khác như Hà Tây, Hải Phòng, Thanh Hóa…Có nhiều huyền tích về thần Linh Lang, trong đó phổ biến nhất là truyền thuyết cho rằng thần Linh Lang là hoàng tử Hoằng Chân, con vua Lý Thái Tông, do một bà phi người làng Bồng Lai (Đan Phượng) sinh ra ở Trại Chợ Thủ Lệ. Lớn lên, Linh Lang cầm quân đánh thắng quân Tống. Vua muốn nhường ngôi cho nhưng chàng từ chối, về ở Trại Chợ, sau bị bệnh từ trần, hóa con rồng đen cuốn quanh phiến đá rồi đi xuống hồ Tây biến mất. Vua bèn cho lập đền thờ ngay nơi ở của hoàng tử và phong thần là Linh Lang đại vương. Trong đền có hòn đá, có hai vết lõm, như thể chứng thực huyền tích nói rằng khi Linh Lang sắp hóa kiếp đã nằm gối đầu lên tảng đá đó. [TABLE="class: timg"]
    <tbody> [TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD="class: des"]Đền Voi Phục - Ảnh tư liệu[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]

    Cũng có thuyết khác cho rằng Linh Lang là con thứ tư của vua Lý Thái Tông. Một cung phi của vua là Cảo Nương đã ra tắm ở hồ Tây, bị rồng cuốn lấy người, về có mang sinh ra hoàng tử. Tương truyền khi hoàng tử sinh ra trên thân có 28 vết hằn trông tựa vẩy rồng và bảy chấm long lanh như ngọc. Vua đặt tên cho là Linh Lang và xây dựng điện cho hai mẹ con ngay bên bờ hồ Linh Lang. Hoàng tử đã tham gia trận đánh quân Tống xâm lược trên phòng tuyến sông Cầu và hy sinh tại đó. Đền được gọi là Voi Phục vì ở cổng đền đắp nổi hình hai con voi phủ phục. Chính nơi đây tục truyền con voi đã quỳ xuống để tướng Linh Lang bước lên, ngồi trên mình voi ra trận… Ý nghĩa lịch sử đã trở nên linh thiêng vì đã gắn bó với sự tích một anh hùng có công đánh giặc ngoại xâm trong thời đất nước mới giành được độc lập.Xem xét các truyền thuyết cho thấy thần Linh Lang đã bị bao phủ một một tấm màn huyền tích dày đặc, nhưng theo lịch sử, có thể thấy Linh Lang cũng là nhân vật lịch sử có thật. Đó chính là hai hoàng tử nhà Lý đã theo Lý Thường Kiệt chống quân xâm lược Tống bên phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu) và hi sinh. Đền Linh Lang được lập nên là để ghi nhớ công lao của hai người anh hùng chống giặc ngoại xâm, đã được nhân dân linh hoá thành thần Linh Lang biến thành giao long (hay rồng) bò xuống nước và biến mất.Thế nhưng, dù là truyền thuyết hay nhân vật lịch sử, Linh Lang vẫn là một vị thần được nhân dân tôn kính và lễ bái. Đền thờ thần được xem là một trong Thăng Long tứ trấn nhằm bảo vệ kinh thành Thăng Long qua bao triều đại và biến thiên lịch sử.

    Kiến trúc



    Về kiến trúc, đền xây theo kiểu chữ công (工). Gian ngoài là đại bái, giữa là đền trung, trong cùng là hậu cung. Tiền tế 5 gian, kết cấu vì kèo chồng rường, mái lợp ngói mũi hài cổ. Trung đường 1 gian chạy dọc vào phía trong nối với hậu cung. Hậu cung cũng có 5 gian, gian chính giữa ở vị trí sâu và cao nhất là tượng Linh Lang Đại vương. Tượng có nét mặt thanh tú, cao sang và còn rất trẻ. Phía trước tượng là hòn đá lớn đặt trong hộp kính. Hòn đá có vết lõm, tương truyền thần đã từng gối đầu. Về hai phía thờ hòn đá là tượng hai phụ tá đứng chầu. Nơi đặt tượng là ngai lớn chạm khắc hình rồng, hoa lá tỉ mỉ, các nét chạm mang nghệ thuật thế kỉ XIX. Bên trái phía trước đền là tám gian tàu tượng, nơi để cỗ bàn hoặc khách hành hương ngồi nghỉ, ăn trầu uống nước. Ngoài ra, trong đền còn có một am nhỏ thờ người quản tượng của Linh Lang. Phía ngoài đền là tam quan. Cổng vào có hai trụ tường, đắp nổi hai bên là hai con voi phủ phục, trông rất cổ kính. Trong đền còn khá nhiều di vật và tự khí. Ở đại bái có hai pho tượng đồng, bát hương sứ, một thanh bảo kiếm, tám thanh long đao. Ngoài ra, đền còn có tàn, tán, lọng cùng đồ lộ bộ, bát bửu đều mới sắm đầy đủ lấp lánh màu vàng son lộng lẫy. Di vật bằng chữ còn có sáu bức hoành phi mang những mỹ tự và bốn đôi câu đối, trong đó có câu:
    Mộc biểu chỉ sơ nhất chính dực tán trung lương thánhĐông A di hậu vạn cổ bao phong thượng đẳng thần
    Tạm dịch :
    Thời Lý buổi đầu một lần đi đánh dẹp, sự nghiệp trung lương được (thần) phù giúpĐời Trần về sau muôn đời tôn phong danh hiệu thượng đẳng thần
    [TABLE="class: timg"]
    <tbody> [TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD="class: des"]Gian đại bái của đền - Ảnh: Hoàng Chí Hùng [/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]

    Trải qua những biến thiên của lịch sử và nhiều lần trùng tu, nay đền không còn hình dáng cũ. Đền chính là địa bàn trận phục kích quân Pháp của quân dân Hà Nội vào ngày 21/12/1873 và ngày 18/05/1882 (ngày 2 tên quan 5 giặc là Villers và Henri Rivière đã tử trận). Năm 1947, giặc Pháp mở rộng chiến tranh, đánh lên Sơn Tây nên đã đốt trụi đền Voi Phục. Đến năm 1953, nhân dân trong vùng đã quyên góp tiền và xây dựng lại, song không được như cũ. Từ năm 1954 đến nay, đền cũng đã có nhiều đợt tu sửa nhỏ.Đầu năm 1994, nhân dân Thủ Lệ đã quyên góp đúc lại quả chuông chiều cao 93cm, đường kính miệng 70cm, thân chia 4 múi, mỗi múi có 2 hàng chữ Hán đúc nổi "Tây trấn thượng đẳng". Đường vào đền có nhiều cây cổ thụ. Đền được xây cạnh hồ Thủ Lệ, có khuôn viên rộng rãi, cây cối xanh um tùm nên được coi là một cảnh đẹp của thủ đô Hà Nội. Đường vào đền có những cây muỗm, cây si lâu đời, sau đến có những bụi nứa, là di tích còn lại của một vùng rừng cổ.

    Lễ hội



    Người dân Thủ Lệ qua nhiều đời đã tưởng nhớ, tạ ơn thánh Linh Lang bằng các lễ hội hằng năm và từng mùa theo lệ làng. Lễ hội lớn nhất của đền được chọn là ngày thánh hoá, ngày mồng 10 tháng 2. Hội kéo dài bốn ngày từ mồng 9 đến 13 tháng Hai. Ngày hội chính là ngày 11/02 AL. Cùng ngày này ở đền Voi Phục trên Thuỵ Khê, thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ cũng tổ chức lễ hội. Trước đây, vào ngày hội chính, ban tổ chức lễ hội thường tổ chức đám rước từ đền Voi Phục - Thuỵ Khê về đền Voi Phục - Thủ Lệ. Tương truyền đền Voi Phục ở Thuỵ Khê thờ Linh Lang đời Trần. Đó cũng chính là vị Linh Lang đời Lý đã đầu thai để đánh giặc ở thời Trần. Lễ vật dâng cúng trong lễ hội là tam sinh: trâu, dê, lợn, cùng với xôi, bánh giầy và rượu. Đây là hội rước lớn với cờ quạt, chiêng trống, lọng, tàn, tán nối nhau thành hàng dài cùng phường bát âm và đội sênh tiền rất nhộn nhịp.Từ ngày mồng 9 tháng Hai, hội bắt đầu với nghi thức tế lễ và dâng hương hoa. Ngày 10, 11, 12 và 13 thì có đám rước của các làng và nhiều trò chơi như chọi gà, cờ tướng, múa rồng, buổi tối có hát chèo hoặc tuồng. Trong cuộc tế ngày 10 có đọc chúc văn kể công đức của thánh, trình thánh về thành quả lao động năm qua và cầu mong được thánh phù trợ cho năm tới mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, dân làng no đủ và sung túc. Lễ hội là dịp tưởng niệm và ghi nhớ công ơn tổ tiên, đồng thời là dịp giáo dục cho con cháu về lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Trong những năm gần đây, Ban quản lý di tích tiến hành nghi lễ rất trang trọng và bổ sung vào nội dung cho phần hội vui hơn như sau nghi lễ có hát quan họ, chọi gà, chơi cờ… Đội múa rồng biểu diễn trên thuyền trong hồ trước đền trong suốt mấy ngày hội. Hát quan họ hay chơi cờ tướng đều là những cuộc thi tài để cuộc vui thêm náo nức và thu hút khách thập phương nhiều hơn.




    ---------- Post added at 04:13 PM ---------- Previous post was at 04:12 PM ----------

    [h=4]Đền Liễu Giai
    [/h]



    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đền Liễu Giai - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Đền Liễu Gia thuộc phường Cống Vị, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Tên đền gọi theo tên trại Liễu Giai, một trong 13 trại (Thập tam trại) ở phía Tây kinh thành Thăng Long xưa kia.
    Đền thờ ông Hoàng người làng Lệ Mật, là Thái tế Hoàng Phúc Trung. Theo truyền thuyết, ông là người có công xây dựng, tạo lập nên vùng Thập tam trại từ thời Lý, biến khu đầm lầy, cây cối um tùm, nhiều thú dữ ở phía Tây thành Thăng Long thành một khu vực sầm uất, đông người đến sinh sống, an cư lạc nghiệp. Ngoài ra, đền còn thờ thánh mẫu và Thuỷ Tinh phu nhân.
    Hiện tại, không còn tư liệu nào nói đến lịch sử xây dựng đền Liễu Giai nhưng với kiến trúc hiện nay, ta có thể thấy ngôi đền được trùng tu nhiều lần, nhất là dưới thời Nguyễn. Đền được xây dựng theo kiểu chữ Công. Đền Liễu Giai quay hướng Tây Nam, phía trước có Nghi môn. Nhà tiền tế 5 gian xây kiểu đầu hồi bít đốc, giữa là ống muống, sau là hậu cung của ba gian nhỏ. Bộ vì làm kiểu thượng chồng rường, hạ kẻ chuyền. Các hàng cột được xây dựng theo kiểu "thượng thu hạ thách", chân tầng của cột được xây bằng đá xanh, nền lát gạch. Phía trước nhà Tiền tế có hai trụ đắp bằng gạch, đỉnh trụ được tạo nên bởi bốn con chim phượng ấp bụng vào nhau để vút đuôi lên cao, tạo thành một chóp nhọn. Những trụ này được nối với nhà Tiền tế qua hai bức bình phong đắp nổi hình hổ phù và hình rồng thể hiện quan niệm "Tả thanh long, hữu bạch hổ" của kiến trúc cổ. Hai đầu hồi đắp hai trụ biểu gạch vữa trang trí ô hộc là 2 loại hình khá phổ biến của thời kì này.
    Sau nhà Tiền tế là Hậu cung. Đây là một kiến trúc 3 gian kiểu "vì kèo quá giang", được trang trí đơn giản với những hoa văn truyền thống. Trong Hậu cung thờ các tượng Tam Phủ, Hồng Nương, Quế Nương, tượng Cô, Cậu theo hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu.
    Ngoài ra, đền còn có một số bộ cánh cửa bức bàn làm kiểu thượng song hạ bàn, chạm nổi tùng, lộc, cúc, mai liên hoàn có niên đại thế kỉ XIX. Các bộ phận của kiến trúc nhà tiền tế như đầu dư, cốn nách đều được chạm khắc rồng, phượng, có niên đại thế kỉ XIX. Bên cạnh những giá trị về kiến trúc nghệ thuật, đền Liễu Giai còn có ý nghĩa về lịch sử, về địa danh giúp cho việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của thành Thăng Long.
    Đền đã được nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử Nghệ thuật Kiến trúc ngày 27/12/1990.


     
  8. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền Kim Liên
    [/h]




    Đền đình Kim Liên ở số 148 Đào Duy Anh, quận Đống Đa, Hà Nội. Nếu không cho số nhà, nhiều người nhầm lẫn đền với chùa Kim Liên ở Hồ Tây.
    Đền Kim Liên là một ngôi đền có lịch sử lâu đời của thành phố Hà Nội, vốn được lập nên để thờ Cao Sơn Đại vương. Sau này, dân làng Kim Liên đã lập thêm cổng tam quan ở phía trước cổng đền ngay sát đầm Kim Liên và bổ sung thêm một số kiến trúc mới, tạo thành đình Kim Liên. Ngoài Cao Sơn Đại Vương, trong đền và đình này còn thờ Tam Phủ, thờ Mẫu...
    Lịch sử


    [TABLE="class: timg"]
    <tbody> [TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD="class: des"]Đền Kim Liên - Ảnh: Hoàng Chí Hùng [/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]

    Đền Kim Liên là một trong "Thăng Long tứ trấn", được xây dựng từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. "Thăng Long tứ trấn" là bốn ngôi đền thờ bốn vị thần ngự từ xa xưa, ngày đêm canh giữ cho kinh thành bình yên và thịnh vượng. Đó là :
    - Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, thần được phong Quốc Đô thành hoàng Thăng Long, trấn phương Đông.
    - Đền Voi Phục (Thủ Lệ) thờ Linh Lang Đại vương trấn phương Tây.
    - Đền Trấn Vũ (còn gọi là quán Trấn Vũ hay đền Quán Thánh) thờ Huyền Thiên Trấn Vũ trấn phương Bắc.
    - Đền đình Kim Liên ở phương Nam thờ thần Cao Sơn.
    Theo truyền thuyết, Cao Sơn là một trong những người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ ở lại đồng bằng để làm bộ tướng thân cận cho Sơn Tinh (tức thánh Tản Viên), giúp Sơn Tinh đánh Thuỷ Tinh. Sau này, thần ở dưới thế với tên Nguyễn Hiền (còn có họ Cao, tên là Văn Trường), quê ở xã Thanh Uyên, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Nguyễn Hiền thông minh từ nhỏ, làm quan đến chức Thừa tướng triều Lê. Ông có công giúp vua Lê Tương Dực (1510 - 1516) dẹp loạn và khôi phục nhà Lê. Khi mất, ông được vua Lê phong là "Cao Sơn Quốc Chủ Đại Vương", cho xây đền và dựng bia thờ.
    Đình Kim Liên xây trên gò đất cao, quay mặt về hướng Nam, trông ra một hồ rộng có tên xưa là hồ Đồng Lầm. Kim Liên, tên cũ là làng Kim Hoa, gọi nôm là Đồng Lầm, vốn là một làng đẹp, có nghề nhuộm vải, có phong tục lễ nghi phong phú (đầm này nay không còn do bị lấp đi để làm đường vành đai 1). Đây là một trong 23 phường thôn hợp thành tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương cũ. Đến khoảng đầu đời Vua Thiệu Trị - Nguyễn Phúc Miên Tông tức Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847), vì kiêng húy tên của mẹ vua Thiệu Trị là Hồ Thị Hoa nên đổi là Kim Liên, sau là tổng Kim Liên.
    Đền Kim Liên còn được gọi là đình do kiến trúc ban đầu nơi đây là một ngôi đình. Sau này, đình được sử dụng làm đền thờ thần Cao Sơn nên gọi là đền Cao Sơn. Trước kia, đền thuộc phường Kim Hoa rồi phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức. Trong đó, phía Tây của đền là đàn Xã Tắc, phía Bắc là đàn Thiên Văn, phía trước là đê của thành Đại La (nay là khu vực đê La Thành ). Tên gọi chính thức của đền hiện nay là đền đình Kim Liên.
    Đền thờ chính gồm có: bình phong, cổng ngoài, phương đình (tam quan), bái đường (tiền đình và trung đình ) và hậu cung.
    Năm 2000, đền được phục hồi nhà tiền đình, mừng 900 năm Thăng Long - Hà Nội.
    Năm 2005, đền được sửa chữa phương đình và sơn thếp toàn bộ khung chính.
    Năm 2006, sửa chữa tả vu, hữu vu, sân và cổng.
    Trong năm 2007 - 2008, đền được tu sửa giếng đình và phục hồi lại hồ bán nguyệt (trước kia vốn là đường đi).

    Kiến trúc


    [TABLE="class: timg"]
    <tbody> [TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD="class: des"]Kiến trúc Phương đình - Ảnh: Hoàng Chí Hùng [/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]

    Kiến trúc của đền cũng giống như các đền ở Bắc Bộ. Tuy nhiên, do trước đây, đền là đình nên cũng có nhiều điểm khác biệt.
    Trước cửa đền là tấm bình phong đóng vai trò tiền án, chắn gió độc và những điều không tốt lành. Dáng bình phong tựa như một cuốn thư đang mở, có đắp nổi phù điêu rồng vờn mây. Phía sau bình phong là khoảng sân nhỏ dẫn vào cổng ngoài của đền.
    Bên trái cổng ngoài của đền Kim Liên là bảng giới thiệu di tích lịch sử và nghệ thuật. Cổng vào có dạng tam quan. Cổng lớn ở giữa với hai trụ biểu cao, ba mặt có các cặp câu đối. Hai cổng nhỏ hai bên dẫn vào hai dãy tả vu và hữu vu (nay được dùng làm phòng đọc sách). Giữa tả vu và hữu vu là khoảng sân rộng, rất tiện cho việc nhóm họp - chuẩn bị cho lễ hội của đền.
    Phương đình được làm dạng tam quan, có mái che và hai cổng phụ hai bên. Bậc thềm có 9 bậc (theo quan niệm xưa, 9 là số của bậc đế vương). Dọc theo các bậc thềm có hình bốn con rồng cách điệu kiểu vờn mây. Trên bốn cột đình có đắp nổi hai cặp câu đối. Ở giữa treo một bảng sơn son thiếp vàng với ba chữ lớn 方南鎮 (Phương Nam Trấn). Trên hai trụ ngoài của đình có tượng hai con nghê tượng trưng cho sức mạnh và trí thông minh.
    Trên hai bức tường bên hông của phương đình có đắp nổi tượng hai vị thần gác đền với khuôn mặt nhìn ra phía ngoài, tư thế chào mọi người. Có lẽ đây là tượng thần mới đắp nên có dáng vẻ thân thiện, không oai vệ và uy nghiêm như thần gác cửa ở các ngôi đền khác. Dưới chân hai thần là bát nhang và xấp "tiền quà". Có thể đây là nơi người xưa thường đặt lá sớ của mình để gởi đến thần linh.
    Nhìn từ phía sau, phương đình có ba gian. Gian giữa là cổng ra vào, hai gian bên là hai tượng con ngựa tương ứng với hai thần gác cửa phía trước. Trên hai trụ ngoài cùng của phương đình cũng có tượng hai con nghê. Ở các mặt cột có những cặp câu đối. Sau gian giữa là một cái đỉnh chữ nhật lớn, đúc bằng xi măng. Tiếp theo là cái sân rộng chuyển tiếp từ phương đình đến đền thờ chính. Đây cũng là nơi chuẩn bị, tổ chức những nghi thức tế lễ.
    [TABLE="class: timg"]
    <tbody> [TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD="class: des"]Nhà thờ trong Phương đình - Ảnh: Hoàng Chí Hùng [/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]

    Vì kèo của phương đình đã được làm mới, với các hoạ tiết điêu khắc quen thuộc ở đền, đình Việt Nam, mang đậm nét kiến trúc thời Nguyễn. Các đầu rường phía trên chồng lên nhau có hình vân mây. Đầu kèo phía dưới cũng được chạm nổi hình chim phượng hoàng ngậm cuốn thư. Toàn bộ phương đình có bốn bộ vì kèo đỡ mái theo kiểu "chồng rường, giá nghiêng, cột trốn".
    Ở gốc phải của đền có một di sản rất quý là tấm bia lớn mang tên Cao Sơn Đại Vương Thần Từ Bi Minh. Bia cao 2,47m, rộng 1,57m, dầy 0,22m. Bia được phần rễ cây cổ thụ ôm lấy như để giữ gìn và bảo vệ. Nơi bức tường gần đó có tờ giấy lớn với hình bia được in lại và dịch ra bản tiếng Việt. Bia được dựng vào năm Nhâm Thìn, Cảnh Hưng thứ 39 (1772).
    Gần bia đá, phía bên phải có đền thờ Tam toà Thánh Mẫu. Phía trên ban thờ là tượng ba vị thánh mẫu (cõi thiên, cõi địa, cõi thuỷ). Ở giữa là vua cha và Ngọc hoàng Thượng đế, phía dưới có ban thờ Quan Âm. Bên phải có bàn thờ cô cậu. Ngoài ra còn có ban thờ Động Sơn Lâm Sơn Trang. Trong đền phụ còn có ban thờ Trần triều Đại Vương (Đức Thánh Trần Hưng Đạo). Tuy đền có thờ nhiều thần và phối hợp thờ thiên địa cũng như đức Phật nhưng không có màu sắc mê tín. Trong đền không có lên đồng, bói toán mà chỉ hoạt động như là một đền thờ mang dấu ấn di tích lịch sử. Nơi bia đá và đền thờ phụ cũng được bài trí khang trang và sạch đẹp.
    Đền thờ chính có năm gian và bốn lớp. Lớp mái có cấu tạo như nơi chuẩn bị mũ áo, đồ tế lễ để vào đền. Lớp thứ hai là tiền đình - nơi để cử hành nghi thức lễ bái. Lớp thứ ba là trung đình (ban thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, tam phủ). Lớp thứ tư là hậu cung - nơi thờ Cao Sơn Đại Vương. Trong đền còn giữ 39 sắc phong của Cao Sơn Đại Vương, trong đó có hai sáu đạo thời Lê Trung Hưng, mười ba đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất trong số đó là sắc phong có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ hai (1620). Khi ông mất ở quê, nhà vua còn phong tặng ông làm Cao Sơn Quốc Chủ Đại Vương.
    Phía bên phải trung đình có ban thờ Tam phủ: Thiên (trời) - Địa (đất) - Thuỷ (nước). Ban thờ này ảnh hưởng đậm nét đạo Lão, thể hiện quan niệm vạn vật hữu linh. Trong trung đình có nhiều hương án rất đẹp đựơc chạm theo kĩ thuật thông phong với nhiều đề tài phong phú như hoa quả, cây lá, trang châu tứ linh, tứ quý, bát bửu, long mã...
    Ở giữa trung đình là ban thờ Công đồng các quan. Nơi đây cũng là chỗ tiến hành nghi thức quan trọng khi cúng lễ đền. Cũng như ở các đền và đình khác, ban thờ các quan văn và quan võ riêng hoặc văn võ chung đều được đặt ở trung đình, trước chính điện hoặc hậu cung. Ở nhiều đền thờ hiện nay có thêm ban thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đền Kim Liên, ban thờ này được đặt ở gian bên trái của trung đình. Phía trước là bàn tiếp khách và bàn ghi sổ công đức của đền. Gian kế bên là nơi để trống hội, bằng công nhận bia và đền đình Kim Liên là di tích lịch sử văn hoá do Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch) cấp.
    Hậu cung ở phía sau trung đình là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương (tượng ở giữa ) và hai nữ thần phối tự: Thuỷ Tinh đệ tam - Tôn nữ Đông Hồ Trưng Vương, con gái vua Lê (tượng khoác áo màu trắng) và Huệ Minh phu nhân (tượng khoác áo màu đỏ). Trong đình hiện vẫn còn long ngai thờ thần Cao Sơn (có kích thước lớn, được chạm khắc tinh vi với kiểu chân quỳ.
    Ở đình vẫn còn câu đối:
    Xuất vi tuấn kiệt nhập vi thầnCông tại quốc gia danh tại sử
    Tạm dịch
    Sống làm hào kiệt chết hóa thầnCông với quốc gia, danh sử ghi
    Hội đền và đình Kim Liên được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Sau phần nghi lễ, người ta tổ chức các sinh hoạt văn hoá độc đáo như chọi chim, thi nấu cơm trên thuyền, chơi bấp bênh dưới nước... Ngoài ra, hội còn có một cuộc thi đặc sắc khác là thi tài dọn cỗ cúng thần với những mâm cỗ rất độc đáo.
    Hiện nay, di tích đền Kim Liên bị lấn chiếm trầm trọng. Khi đến thăm khu di tích lịch sử này, du khách không khỏi ngậm ngùi trước thực trạng một di tích lịch sử quan trọng của quốc gia đã và đang bị xâm phạm một cách ngang nhiên, trắng trợn. Trước cửa đình tập trung nhiều hàng ăn và quán nước, bất chấp cảnh báo cấm vi phạm trên tấm biển cạnh cổng vào. Ao đình đã từ lâu bị san bằng, dấu tích còn lại chỉ là một bãi đất trống án ngữ trước đình.
    Bên cạnh đình là Giếng Ngọc vốn xưa là giếng nước sinh hoạt của làng. Theo các cụ cao niên trong làng thì giếng có diện tích chừng hơn 400m[SUP]2[/SUP], hình tròn, được đào rất sâu, nước trong và mát, có bậc lên xuống bằng gạch để dân làng tiện lấy nước sinh hoạt. Thế nhưng, hình ảnh đó chỉ còn lại trong ký ức của những bô lão. Giờ đây, Giếng Ngọc đã trở thành một ao nước tù đọng, lềnh bềnh rác, bốc mùi hôi. Trước đây, cứ đến xế chiều khu giếng đã trở thành nơi nghỉ ngơi - giao hoà của các cụ, thì nay Giếng Ngọc trở thành nơi tập trung lý tưởng cho các loại ruồi, muỗi. Điều đáng nói là Giếng Ngọc đang trở thành nơi tập kết rác, đổ nước thải sinh hoạt, bãi phế liệu, vật liệu xây dựng... Ngoài ra, một vài hộ dân quanh Giếng Ngọc đã khoanh vùng, chiếm dụng đất quanh giếng làm nơi chăn nuôi các loại gia cầm như gà, vịt... Thiết nghĩ các cơ quan chức năng cần có những biện pháp xử lí kịp thời, thích đáng để giữ gìn, tôn tạo một di tich mang nhiều giá trị văn hoá, nghệ thuật độc đáo này.






    ---------- Post added at 04:14 PM ---------- Previous post was at 04:13 PM ----------

    [h=4]Đền Đống Nước
    [/h]Ngôi đền toạ lạc trên một khu đất bằng phẳng làng Ngọc Hà, thuộc phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đền thờ tam phủ thánh mẫu. Tương truyền, xưa vùng đất thuộc khu đền có những cột nước từ dưới đất phun lên như một đống nước, vì vậy đền có tên là đền Đống Nước. Theo thuyết phong thuỷ, đất này nằm trên vòi con rồng, mỗi khi trở trời nước lại phun lên nên dân ở đây đã lập đền thờ. Theo ngọc phả ghi chép thì nơi đây có một người con gái là Bạch Ngọc Nương được sinh ra khác thường. Khi nàng hoá, trời xám, mưa to, nước sông dâng (vào ngày 17 tháng tám). Từ đó, đất này có nước dâng, dân thấy linh thiêng bèn lập miếu thờ. Đến đời vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293), khi vua cầm quân đi đánh giặc Nguyên, có dừng lại và đã mộng thấy người con gái tự xưng là con gái Long Vương xin theo để ngầm giúp vua đánh giặc. Khi trở về, vua cho dân ở trại Đống Nước tu sửa miếu thờ, phong thần hiệu là "Nữ Bạch Ngọc Hồ, thuỷ thần tân linh công chúa".
    [TABLE]
    <tbody> [TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Cổng tam quan đền Đống Nước - Ảnh: Hoàng Chí Hùng [/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]

    Tương truyền đền được lập từ lâu đời, song khảo sát kiến trúc còn lại thì ngôi đền được đại tu dưới thời Nguyễn. Đến năm 1954, nhân dân ở đây còn góp tiền để tu tạo. Quanh đền có nhiều cây cổ thụ. Ngoài cửa đền có hồ vuông rộng đến ba sào, tiếp đến là nghi môn, sân vườn, tả mạc, hữu mạc, đền chính và hậu cung. Ngoài ra, trong khuôn viên đền còn có hồ Dền. Tam quan có những cột trụ lớn, trên đỉnh được trang trí hình chim phượng kết trái dành, 2 tượng quan võ đắp nổi cũng như các câu đối ở hai bên. Nóc đền chính và hậu cung có đắp nghê chầu mặt trời. Chính giữa tiền tế có đặt 1 nhang án, hai bên có bát bửu, trống chiêng, chuông. Nghi môn có hai trụ biểu to, cửa chính làm kiểu hai tầng mái giả chồng diêm có góc uốn và hai cửa mái già kiểu chồng diêm nhưng thấp và nhỏ hơn. Hữu mạc (là nơi thờ bà chúa) là dãy nhà 3 gian với 2 nếp tạo thành chữ Nhị, kiểu vì kèo trốn cột hai lớp mái. Liền với tả hữu mạc có hai lầu thờ tứ phủ cô và tứ phủ cậu. Đền chính gồm ba nếp nhà tiền đường, trung đường nằm song song và hậu cung ở sau nối liền trung đường. Trong toà trung đường, bên phải có tượng đức ông, bên trái có tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn, đặt trong khám. Ở chính giữa có bàn thờ ông Hoàng Bảy và ông Hoàng Mười. Tại hậu cung có sập thờ và bệ thờ trên có đặt 1 khám lớn thờ Tam toà Thánh Mẫu. Những đồ trang trí trong đền chính và hậu cung như cửa võng, hoành phi, câu đối, bộ bát bửu... đều được chạm trổ tinh vi và sơn son thiếp vàng.
    Ngoài ra, đền còn có những sập thờ kiểu chân quỳ dạ cá, nhang án gỗ cong với những hình chạm nổi tứ quý... rất có giá trị về mỹ thuật. Ngôi đền hiện tại cũng còn bảo lưu được nhiều câu đối ca ngợi cảnh đẹp linh thiêng cùng công lao của Ngọc Nương :

    Đắc địa lâu đài, như nhật chi hằng, như nguyệt chi thăng, như sơn chi thọ

    Kình thiên trạch trụ, nhược mộc hữu căn, nhược thương hữu thực, nhược thuỷ hữu nguyên

    Dịch nghĩa:

    Lâu đài ở chôn đất thiêng, như mặt trời bền vững, như mặt trăng mọc lên, như núi non trường thọ.

    Nhà cửa cao chọc đến trời, như cây cối có gốc, như kho tàng có của, như sông ngòi có nguồn.

    Hiện đền Đống Nước còn giữ được một ngọc phả soạn từ năm 1572, hai sắc phong và một khoán ước. Đền đã được trùng tu nhiều lần.

    Để nhớ ngày thần sinh và hoá, hàng năm nhân dân ở đây lại tưng bừng mở hội. Đám rước đi từ Đống Nước sang Liễu Giai, làm sớ dâng tên đầy đủ những suất đinh trong làng, lại làm cỗ để tế lễ, rồi sau đó mời dân làng hưởng lộc.

    Đền được công nhận là di tích lịch sử văn hoá năm 1993.

    ---------- Post added at 04:14 PM ---------- Previous post was at 04:14 PM ----------

    [h=4]Đền Sái
    [/h]



    Lịch sử - Truyền thuyết


    Đền Sái thuộc làng Thuỵ Lâm, xã Thuỵ Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Đền Sái là di tích gắn liền với việc vua Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Tương truyền vua xây thành cứ ngày đắp đêm lại bị đổ, vì bị yêu ma Bạch Kê Tinh (tinh gà trắng) phá hoại. Tinh gà trắng ban ngày trú ẩn ở núi Thất Diệu, ban đêm lại xuất hiện. Vua không có cách nào để trừ khử, bèn làm đài cầu khẩn, liền được Huyền Thiên Trấn Vũ sai thần Kim Quy (tức sứ Thanh Giang) hiện ra mách bảo kế chém giết Bạch Kê Tinh nên thành ốc mới xây xong. Tưởng nhớ công đức của Huyền Thiên, vua đã cho xây đền thờ trên đỉnh núi Thất Diệu để thờ. Đền này được gọi là đền Sái. Đây cũng là nơi Huyền Thiên đã tu luyện và cũng được gọi là Vũ Đương Sơn. Vua Thục hàng năm thường đến bái yết, quan quân từ Cổ Loa kéo đến, sau khi làm lễ tượng trưng cho việc giết Bạch kê Tinh, lại trở về kinh đô. Lý Thái Tổ sau khi dời đô ra Thăng Long, đã đến núi Sái cầu Huyền Thiên và sinh được hoàng tử. Thấy công đức của Huyền Thiên rất to lớn, nhà vua đã cho xây đền Trấn Vũ (còn gọi là đền Quán Thánh) ở phía Bắc kinh thành, rước Huyền Thiên về ở đó. Huyền Thiên trở thành vị thần trấn ngự phía Bắc của "Thăng Long tứ trấn".
    Đền Sái được xây dựng trên một quả đồi cao giữa đồng, gồm nhiều công trình, quay mặt về hướng Nam, tiếp đến gác chuông là điện Kính Thiên, nhà tiền tế, tiền đường, hậu cung. Các kiến trúc mang dấu tích vào cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn. Đền có nhiều đồ thờ cổ, tượng thần Huyền Thiên Trấn Vũ bằng đất sơn son thếp vàng, ngồi tĩnh tại, chân đế có chạm các hình rùa và rắn, phía sau có hai tượng phụ mẫu. Đặc biệt có cây hương đá làm từ thời Lê niên hiệu Chính Hoà (cuối thế kỉ XVII) và các viên gạch lát có vẽ vân rồng thời Lê. Đền Sái còn nhiều dấu tích liên quan tới Huyền Thiên Trấn Vũ như "mã đề tiên tích" (vết chân của ngựa tiên), tiên tỉnh (giếng tiên), tiên trì (ao tiên). Xung quanh đền có rừng cây xanh tốt, làm tăng vẻ tôn nghiêm của nơi thờ thần.

    Lễ hội


    Lễ hội đền Sái gọi là "hội rước vua" được tổ chức vào ngày 12 tháng Giêng hàng năm. Từ trước Tết ÂL, dân làng đã chọn người đóng giả vua, sứ, quan trấn thủ và các quan khác để tập dượt nghi lễ. Ngày mồng 5 tháng Giêng lễ sửa đường, mồng 6 lễ cắm dinh, chọn chỗ cho vua, sứ và các quan đặt dinh của mình, ngày mồng 9 làm lễ thượng thỉnh, làm cỗ chay gồm bánh dày, bánh chưng dâng vua để phát cho các quan quân. Mồng 10 làm lễ sỉnh sinh, vua khao thưởng dân. Ngày 11, những người đóng vai vua, sứ, quan đi lễ thành hoàng làng là Đông Hải đại vương và Tam Giang đại vương. Ngày 12, lễ chính, từ sáng sớm mọi người đóng các vai đã tề tựu ở đình. Vua và sứ được con cháu khênh kiệu rước từ nhà ra. Mọi người đều hoá trang, đánh phấn, mặc quần áo, độ mũ, đi hia như vai đóng. Lễ hội bắt đầu bằng việc vua sai bốn xá nhân đến gọi quan trấn thủ sang hầu. Quan trấn thủ mời sứ cùng đi. Sứ phải đi vòng ba vòng quanh đình, 4 xá nhân mới cho vào yết kiến vua. Các quan viên mang theo những đầu gà làm bằng gộc tre sơn trắng bôi phẩm đỏ làm mào. Các đầu gà được bêu lên để làm lễ mừng, mọi người reo hò. Sau đó, vua đến dinh quan trấn thủ điểm danh quân và đọc "tích ca" rồi làm lễ rước vua ra Đồng Châu, có các quân lính đi hộ vệ. Vua đến gò Mô làm lễ bái vọng thần Huyền Thiên. Sau lễ bái vọng, vua lên kiệu quay trở về. Đám rước có dàn nhạc cổ, phường bát âm, chiêng trống hoà tấu hết sức vui vẻ.
    Đền đã được nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Nghệ thuật Kiến trúc ngày 27/01/1986.





    ---------- Post added at 04:14 PM ---------- Previous post was at 04:14 PM ----------

    [h=4]Đền Kim Giang
    [/h]



    Đền Kim Giang còn gọi là đền Lủ Cầu, thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, nay là quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Đình thờ bà Mỵ Châu, người đã sinh ra Mạo Giáp Hoa, thành hoàng làng. Bà sống vào đời Lê Anh Tông (1556 - 1573).
    Đền nằm trên một khu đất cao, quay mặt về hướng Tây Nam. Phía trước đền có một hồ sen khá rộng, xung quanh xây tường bao. Đền có bố cục mặt bằng hình chuôi vồ gồm nhà tiền tế và hậu cung. Tiền tế năm gian, xây theo kiểu đầu hồi bít đốc, tay ngai. Bên trong bộ khung gỗ bố trí 4 hàng cột, vì thượng chồng rường, hạ kẻ chuyền. Các cột cái gian giữa được sơn son thếp vàng, các đầu bẩy hiên chạm nổi các hình rồng, mây, chim phượng, hoa lá, vân mây và vân hình học. Phía trong gian giữa tiền tế là bộ y môn sơn son thếp vàng. Phía trên y môn là hình hai con rồng uốn khúc chầu quả cầu lửa, hai bên y môn là đề tài tứ linh: long, ly, quy, phượng. Hậu cung nối liền với tiền tế sử dụng bộ vì 4 hàng chân, bố trí kiểu thường chồng rường, hạ bẩy hiên. Các con rường chạm nổi đề tài rồng, núi, vân mây, dao mác, mặt hổ phù, các đầu bẩy chạm nổi đề tài hoa lá, vân hình học.
    Đình Kim Giang thờ tướng Mạo Giáp Hoa, con bà Mỵ Châu. Ông học giỏi, thi đỗ đầu bảng, được phong thị lang bộ Binh. Giặc chiếm thành xâm lấn, ông lĩnh 3000 quân sĩ đến đạo Sơn Tây đánh dẹp. Giặc tan, trên đường dẫn quân về qua xã Kim Lũ, đến Chạ Lủ Cầu (tức thôn Kim Giang), ông cho quân nghỉ và ở lại Chạ Lủ. Khi mất, ông được dân làng thờ làm thành hoàng. Đình có quy mô, kiến trúc vừa phải, mặt bằng hình chữ Công, quay mặt về hướng Tây Nam. Nhà đại bái gồm 5 gian theo lối đầu hồi bít đốc, bộ vì kết cấu lối giá chiêng kê đấu rất chắc chắn và thanh thoát. Hoa văn trang trí phong phú, đa dạng, đậm đặc trên các bộ phận kiến trúc gỗ như rồng phun mây, long cuốn thuỷ, cá hoá long, tứ linh, hổ phù, chùm hoa cúc trúc, đao mác xen lẫn, hoa văn mây, nước. Hậu cung là một ngôi nhà vuông với kết cấu vì kèo tám mái lợp ngói ta chắc, khoẻ, thanh thoát.
    Hội đình tổ chức vào các ngày: 12 tháng 2 (ngày sinh), 15 tháng 7 (ngày thắng trận), 12 tháng 2 (ngày hoá).




    ---------- Post added at 04:15 PM ---------- Previous post was at 04:14 PM ----------

    [h=4]Đền Kim Hoa nữ học sĩ
    [/h]


    Ngôi đền ở xã Phù Lỗ, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Đền thờ nữ học sĩ Ngô Chi Lan, còn có tên nữa là Nguyễn Hạ Huệ, thuở nhỏ có tên tự là Quỳnh Hương. Ngôi đền ngày nay được xây dựng ngay trên nền cũ ngôi nhà của gia đình bà. Tương truyền bà là con nuôi của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Chồng bà là giáo thụ Phù Thúc Hoành, coi sóc Quốc Tử Giám. Bà giỏi thơ văn, có bài thơ đề ở đền thờ Phù Đổng Thiên Vương trên núi Sóc. Vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) có lần tới núi này đã vào thăm đền, thấy bài thơ của bà, nhà vua khen là trong thơ có ý vị tao nhã. Nhà vua cho triệu bà về cung dạy học cho cung nữ. Sau đó, nhà vua ban cho bà hiệu là Kim Hoa nữ học sĩ, Phù Gia nữ học sĩ. Bà còn lại 9 bài thơ được chép rải rác trong các tập thi tuyển của các nhà thơ đương thời.


    ---------- Post added at 04:15 PM ---------- Previous post was at 04:15 PM ----------

    [h=4]Đền Thăng Long
    [/h]




    Ngôi đền thuộc cụm 74, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Đền còn có tên khác là đền Thuỷ công chúa, đền Mẫu. Theo Tây Hồ chí, đền được xây dựng vào thời Lý Thần Tông (1128 - 1138). Theo dòng lạc khoản của câu đối còn ở hai trụ đền, di tích này được xây dựng từ đời Cảnh Hưng (1740 -1786) và trùng tu nhiều lần vào đời Nguyễn.
    Đền làm theo kiểu chữ Đinh, quay mặt về hướng chính Đông. Từ ngoài cổng vào có hai con voi đắp bằng vữa cao 1,5m, dài 2m. Cửa vào có tấm bưng xây gạch khắc bốn chữ Hợp kính đồng tôn và câu đối ca ngợi đền, sân rộng 40 x 50m. Chính giữa gian tiền tế có bức cửa võng đề Cảm ứng linh thông. Hai bên cửa võng có câu đối và hoành phi ca ngợi công chúa được thờ, 2 bức cuốn thư nhỏ chép hai bài thơ từ ngũ ngôn tứ tuyệt ca ngợi sự bền vững của đất nước. Gian trung tế cũng có bức cửa vọng đề 4 chữ Trí Đức linh từ, hai bên cũng có cuốn thư đề thơ ca ngợi hai vị thần Vệ Quốc và Dực Thánh. Ngoài ra còn có hai câu đối ca ngợi Thuỷ công chúa đẹp như trăng hồ Tây. Trong cùng gian trung tế có bức hoành phi đề Thăng Long từ, dưới có bài vị thờ hai vị thần nói trên. Trong đền còn có hạc, lư hương sứ cỡ lớn với đường kính 50cm, đôi bình cao 60cm, 1 chuông nhỏ cao 0,5m, ngang 0,3m. Bốn sắc phong: 3 đạo thời Cảnh Thịnh 4 (1796), 1 đạo thời Vĩnh Thịnh 6 (1710), 2 bức cuốn thư đề thơ ca ngợi thần Dực Thánh và Vệ Quốc. Trong cùng cửa hậu cung là nơi thờ thánh Bà (Thuỷ công chúa) có tượng và người hầu trên góc của gian thờ còn có một tay đòn kiệu dài 4m. Tây Hồ chí còn cho rằng bà là vợ của Vệ Quốc. Thật sự, theo lịch sử, bà là con gái của vua Lý Thần Tông. Thuỷ công chúa sinh ngày 3/1, hoá vào giờ Ngọ ngày mồng 10/5. Hàng năm vào những ngày này, dân làng tổ chức lễ hội với các trò chơi như bơi trải, đấu vật. Đền Thăng Long có liên quan về nội dung thờ cúng với đền Vệ Quốc, đền Dực Thánh, đình Hồ Khẩu trên đất Thăng Long - Hà Nội xưa.
     
  9. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền Tiên Hạ
    [/h]

    Phất Lộc vốn là tên một làng cổ ở huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình. Vào thế kỉ thứ XVIII năm Đinh Dậu, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717), một môn sinh của làng đã đến học tại trường Quốc tử giám và sống luôn tại đây. Sau đó người làng cũng theo lên và sống tập trung trong một ngõ và gọi là ngõ Phất Lộc.
    Đền Tiên Hạ là một trong bảy ngôi đền thờ Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn tại Hà Nội và là một trong ba ngôi đền còn tồn tại đến ngày nay. Đền hiện toạ lạc tại địa chỉ 46A Ngõ Phất Lộc, Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Xưa kia, nơi đây thuộc giáp Tiên Hạ, phường Đông Các, huyện Thọ Xương, Phủ Hoài Đức, Thăng Long.
    Tiểu sử Nguyễn Trung Ngạn


    Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370), tên tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là Ân Thi), tỉnh Hưng Yên. Năm 1300, khi mới 12 tuổi, ông đã được vào học nhà Thái học (tức Quốc Tử giám). Năm 16 tuổi, ông đỗ Hoàng Giáp khoa thi Thái học sinh năm Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1034) đời Trần Anh Tông, nổi danh thần đồng. Đây là khoa thi sau 30 năm nền khoa cử nhà Trần bị tạm ngưng do đất nước chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285) và lần thứ 3 (1288). Khoa thi này có Mạc Đỉnh Chi đậu Trạng nguyên, Bảng nhãn Bùi Mộ, Thám hoa Trương Phóng và một vị Hoàng giáp là Nguyễn Trung Ngạn.
    Tháng 3 năm Giáp Dần niên hiệu Hưng Long thứ 22 (1314), Trần Anh Tông nhường ngôi cho Trần Minh Tông, đổi niên hiệu là Đại Khánh năm thứ 1. Tháng 10 năm ấy, sứ giả nhà Nguyên hay tin nên sang làm lễ đọc Quốc thư. Chính vì sự kiện này, nên ngay vào cuối năm Giáp Dần, triều Trần cử Nguyễn Trung Ngạn và Phạm Mại sang nhà Nguyên đáp lễ.
    Năm 1321, Nguyễn Trung Ngạn được giữ chức Ngự sử đài Thị ngự sử. Sau đó, vì bàn trái ý vua nên ông bị đổi ra làm thông phán ở châu Viêm Lãng. Ở đấy, ông được tiếng là giỏi chính sự nên ít lâu sau lại được thăng lên làm Thiêm tri cung Thánh từ.
    Năm 1326, Nguyễn Trung Ngạn bị đổi ra làm An Phủ sứ Thanh Hoá. Một thời gian sau, ông lại về triều giữ chức Thiêm tri. Từ thời gian này, ông theo phò tá Thượng hoàng Trần Minh Tông đi tuần thú các nơi và đánh giặc Ai Lao.
    Tháng 9 năm Đinh Sửu (1337), Nguyễn Trung Ngạn được đổi sang làm An phủ sứ Nghệ An, kiêm Quốc sử viện Giám tu quốc sử, hành Khoái Châu lộ Tào vận sứ. Mùa xuân năm Tân Tị (1341), ông được gọi về kinh giữ chức Đại doãn Kinh sư Thăng Long. Tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1342), Nguyễn Trung Ngạn được phong chức Hành khiển tri Khu mật viện sự. Năm 1351, triều đình lại thăng chức ông là Nhập nội Hành khiển. Nguyễn Trung Ngạn còn được vua ban cho mặc chiến bào, đội mũ võ, đeo thẻ bài gỗ, nghiên vàng để duyệt cấm quân, định loại hơn kém khi vua duyệt cấm quân ở Long Trì.
    Không chỉ làm quan đến chức Tể tướng (Nhập nội Hành khiển) mà Nguyễn Trung Ngạn còn để lại một sự nghiệp trước tác đáng ghi nhận với các bộ sách Hoàng triều đại điển và Hình luật thư. Ông cũng là một thi sĩ có tài, là một nhà ngoại giao nhạy bén, sáng suốt . Về nhân cách, Nguyễn Trung Ngạn có đủ cả 3 phẩm chất của bậc chính nhân quân tử Nho giáo là Nhân - Trí - Dũng.
    Hiện nay ở Hà Nội có tất cả 7 đền thờ ông, đều thuộc vùng bến Giang Tô cũ (tương truyền là khu vực nhà của Nguyễn Trung Ngạn ở Thăng Long), gồm:
    - Đền Tiên Hạ ở 46A Ngõ Phất Lộc
    - Đền Hương Tượng ở 64 Mã Mây
    - Đền Hương Nghĩa ở 13B Đào Duy Từ
    - Đình Mỹ Lộc ở 45 Nguyễn Hữu Huân
    - Đình Hương Bài ở 90 Trần Nhật Duật
    - Đình Ưu Nghĩa ở 2A Nguyễn Hữu Huân
    - Đình Phúc lộc ở 6 Lương Ngọc Quyến.

    Kiến trúc


    Các cố lão địa phương cho biết đền Tiên Hạ lập để thờ cụ Ngạn ngay sau khi cụ qua đời, tức vào đời Trần Dụ Tông. Song theo như các tấm bia còn trong đền và căn cứ vào diện mạo hiện nay thì đền được xây vào năm Tự Đức 9, tức năm 1856, 10 năm sau lại được trùng tu.
    Nay công trình đã xuống cấp nhiều, chỉ còn cái vỏ bên ngoài cho thấy các công trình kiến trúc của đền được bố cục theo kiểu chữ Công. Từ ngoài vào trong gồm các công trình sau: cổng đền là một kiến trúc nhỏ hơn kiểu vòm cuốn, trên đỉnh là một nậm rượu, hai bên xây hai cột trụ bằng đồng, đỉnh trụ trang trí búp sen. Qua cổng là một sân nhỏ lát gạch Bát Tràng. Phía trong sân là khu thờ tự gồm: tiền tế, nhà cầu và hậu cung. Các kiến trúc này được khuôn lại trong hệ thống tường bao. Tiền tế là một lớp nhà một gian hai dĩ, làm theo kiểu đầu hồi bít đốc tay ngai. Kết cấu bộ khung gỗ nhà tiền tế gồm 4 vì được làm theo kiểu giá chiêng chồng rường con nhị. Hậu cung gồm 1 gian 2 dĩ chạy ngang. Các bộ vì đỡ mái làm theo kiểu qua giang trụ trốn, bào trơn. Chính giữa hậu cung xây một bệ gạch cao 80cm, phía trên bài trí hai bộ long ngai thờ thần.
    Hiện nay tại di tích còn lưu giữ bộ di vật văn hoá có giá trị lịch sử và nghệ thuật như hoành phi, câu đối, long ngai, bài vị, khám ... Đặc sắc nhất là hệ thống bia đá, gồm 5 tấm, trong đó có tấm bia Tiên Hạ linh từ trùng tu bi kí lập năm Bính Dần, niên hiệu Tự Đức thứ 19 (1866).
    Về hoành phi có 2 bức: Dữ Thiên địa tích và Đức Cửu vô cương.
    Về câu đối có câu:
    Tam triều huân liệt quang tiền sử
    Thất miếu linh thang dực cố đô
    Dịch nghĩa:
    Công rực rỡ ba triều sáng người sử cổ
    Tiếng linh thiêng bảy miếu phù trợ cố đô
    Câu đối cũng chứng minh rõ ràng là Thăng Long có tất cả 7 miếu thờ cụ.
    Về bia đá, có bia nêu triều đại, trong đó có câu: Tiên Hạ Giáp thuộc Thọ Xương cổ Đông Các phường Kim Dũng Thọ thôn hữu đình đài phụng sự.
    Nghĩa là: Giáp Tiên Hạ thuộc huyện Thọ Xương, xưa vốn là phường Đông Các, nay là Dũng Thọ, có đình đài thờ phụng. Trong đền còn có 1 đạo sắc phong vào năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743).
    Trong những ngày đầu của công cuộc Toàn quốc kháng chiến, đền là nơi huấn luyện 72 tiểu đội trưởng đầu tiên của Liên khu I Hà Nội và là cửa ngõ của con đường bí mật khi Trung đoàn Thủ đô rút quân khỏi thành phố.
    Ngày nay, đền Phất Lộc là một địa chỉ thu hút được nhiều du khách đến tham quan, lễ bái, tìm hiểu, nghiên cứu về danh nhân Nguyễn Trung Ngạn cũng như hiểu biết thêm về một địa danh góp phần làm nên chiến công của những ngày đầu công cuộc Toàn quốc kháng chiến ở thủ đô Hà Nội.






    ---------- Post added at 04:16 PM ---------- Previous post was at 04:16 PM ----------

    [h=4]Đền Hương Nghĩa
    [/h]




    Đền Hương Nghĩa hiện toạ lạc tại số 13 Đào Duy Từ, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Xưa kia đây là đất thôn Hương Bài (thôn Hương Bài sáp nhập với thôn Kiên Nghĩa thành thôn Hương Nghĩa) thuộc tổng Tả Túc, sau này là tổng Phúc Lâm.
    Lịch sử và truyền thuyết


    Đền Hương Nghĩa thờ Cao Tứ và vợ ông là Phương Minh công chúa. Được biết, ông là một dũng tướng, văn võ song toàn, được An Dương Vương phong là Trấn thủ Đại La thành (sau là thành Thăng Long).
    Đình Hương Nghĩa ở kế bên đền thờ Nguyễn Trung Ngạn. Song, qua thời gian, đền đã bị phá nên người dân đã đưa bài vị mở đình thờ Nguyễn Trung Ngạn về đền thờ chung với Cao Tứ. Vì thế nên đền Hương Nghĩa cũng còn gọi là đình.
    Theo truyền thuyết kể lại thì Cao Tứ là em Cao Lỗ, người đã có công chế tạo nỏ thần giúp An Dương Vương. Ông là một vị tướng tài giỏi, lập được nhiều công trạng, được An Dương Vương gả công chúa Phương Minh. Khi Triệu Đà xâm lược, ông dàn quân trên sông Tô Lịch chống gặc, khiến Triệu Đà bị thua. Sau đó, khi thực hiện xong kế để Trọng Thuỷ trá hàng và đánh cắp nỏ thần, Triệu Đà lại sang xâm lược nước ta lần nữa, Cao Tứ tiếp tục dàn quân trên sông Tô Lịch chống trả quyết liệt và tử trận. Công chúa Phương Minh hay tin cũng tự trầm mình ở sông Bắc Giang để giữ trọn khí tiết, thuỷ chung với chồng. Về sau, ông bà được vua ban sắc phong và cho phép dân làng Hương Nghĩa lập đền thờ. Tháng 10 năm Quý Mùi (1943), niên hiệu Bảo Đại, đền được trùng tu và có khắc bia Hương Nghĩa đình công đức bi, nội dung nhằm "ca ngợi công đức, mưu lược tài năng của thần Cao Tứ được các Hoàng đế phong mỹ tự, muôn dân tôn sùng. Thời gian gần đây, đình bị đổ nát nên đại thần toàn quyền Pháp cho phép tu sửa để việc thờ cúng được tinh khiết nên toàn dân cùng cựu kỳ mục bản đình là Lưu Văn Năm chánh hội Tân Đinh Nhi triệu tập mọi người góp sức trùng tu đền to đẹp để làm sáng tỏ những điều tốt đẹp từ thời Hùng Vương để nơi đây lại được linh thiêng, muôn dân chiêm ngưỡng, hương hoả mãi mãi, làm cho quốc gia được hưng thịnh, nhân dân khoẻ là như công đức của thần. Vậy làm bia để lưu truyền cùng giang sơn mãi mãi”.

    Kiến trúc


    Đền Hương Nghĩa toạ lạc ngay trung tâm của khu phố cổ Hà Nội. Toàn bộ khu di tích gồm cổng, sân hẹp, đền chính kết cấu theo kiểu chữ Đinh gồm có tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm ba gian hai dĩ, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Bộ vì đỡ mái gồm 6 bộ vì bằng gỗ được kết cấu theo kiểu chồng rường con nhị. Trên thân các con rường, trụ trốn đều được chạm khắc hoa lá cách điệu nổi, ôm sát vào vì nóc, các thân cách chắc khoẻ nhưng mềm mại. Gian giữa của tiền tế được mở các cửa bức bàn gỗ, phía trên của cửa bức bàn được chạm thủng hình hoa cúc mãn khai, đầu cánh hoa được chạm sắc nhọn như đao mác. Hậu cung là một nếp nhà dọc ba gian nối với gian giữa tiền tế qua hệ thống máng che phần mái. Nhà xây gạch, bộ khung đỡ mái có ba vì gỗ làm kiểu vì kèo quá giang, để trơn không trang trí.
    Hiện nay, đền còn lưu giữ một số di vật có giá trị như thần phả bằng chữ Hán cổ ghi lại công tích của Cao Tứ, hai đạo sắc phong Cao Tứ và 4 tấm bia thời Nguyễn, trong đó đáng lưu ý nhất là bia Hậu thần bi ký và bia Hương Nghĩa đình công đức bi.
    Trong gian thờ, ngoài hai pho tượng gỗ Cao Tứ và Phương Minh công chúa đặt trong khám thờ còn có bốn ngai thờ gỗ, chín khám thờ, hai bài vị, sáu câu đối và 5 bức hoành phi ca ngợi nội dung công đức "Thánh cung vạn tuế"
    Hai câu đối còn trong đền là:
    Duyệt ngã Nam tiền thông giám di biên thuỷ hoá, cổ trung tiêu tiết nghĩa
    Kiến La Thành tam danh từ trĩ lập, địa linh thánh tích đối linh hương
    Dịch nghĩa:
    Đọc sử Nam, sách thông giám còn ghi nước lắng cổ trung tiêu tiết nghĩa
    Dựng La Thành, ba đền đài vẫn còn đó, đất thiêng thắng tích đượm hương thơm
    Ngoài ra, trong điện thờ còn có bài vị của Nguyễn Trung Ngạn được đưa từ đình Hương Nghĩa sang.
    Đây là một di tích thu hút nhiều du khách đến tham quan và tìm hiểu về truyền thuyết giữ nước của người Việt xưa.


    ---------- Post added at 04:16 PM ---------- Previous post was at 04:16 PM ----------

    [h=4]Đền Trình
    [/h]





    Đây là một công trình trong quần thể di tích Hương Sơn, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Đền toạ lạc bên chân núi Ngũ Nhạc cho nên còn gọi là đền Ngũ Nhạc. Ngoài ra đền còn có tên là đền Quán Lớn, đền Đục Khê.
    Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII. Từ bến Đục, theo suối Yến đi vào, đền nằm bên phải, cạnh suối. Đền thờ một bộ tướng của Hùng Vương thứ XIV là Hiển Quang, người đã có công đánh giặc, giúp dân trừ bạo.
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đền Trình chùa Hương - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Đền Trình cũng là nơi khai lễ hội chùa Hương với lễ mở cửa rừng vào ngày Mồng 6 tháng Giêng hàng năm với ý nghĩa là lễ để người trần gian xin phép thần rừng được vào rừng bái lễ và làm ăn sinh sống.
    Nằm ở cửa ngõ vào khu danh thắng Hương Sơn nên đền được xem là nơi trình báo trước khi du khách bước vào đất Phật. Xưa nay, khách thập phương về trẩy hội chùa Hương trước khi xuôi dòng suối Yến vào chùa Ngoài, chùa Trong thường dừng lại nơi đây đặt lễ. Về kiến trúc, đền được xây dựng theo kiểu chữ tam, mang dáng thượng sơn lâu đài, hạ sơn lưu thuỷ. Ngoài sân đền đắp hai con voi phục có bành, chạm trổ công phu, có hai cột trụ đá và hai pho tượng đá là những công trình điêu khắc đẹp. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, đền đã bị phá huỷ. Những năm gần đây, đền lại được dân làng Yến Vĩ tôn tạo, xây dựng lại với quy mô to đẹp như xưa. Phía sau đền có khu rừng Cấm. Đây là một thắng cảnh đẹp. Từ đền Trình đi đò dọc suối Yến vào chùa Thiên Trù (chùa Ngoài) gặp hang Sơn Thuỷ hữu tình với bút tích của chúa Trịnh Sâm, gặp cầu Hội của làng Hội Xá bắc qua dòng suối vào khu ruộng ven núi. Đi theo đoàn thuyền và dòng suối là cả một quần thể đồi và núi. Núi Ba Đài Rượu, núi Voi Phục, núi Mâm Xôi. Hầu hết các đỉnh núi này đều nghiêng về phía chùa, như có ý tất cả đều xô về cửa động. Đền Trình là nơi mở đầu con đường nước kì thú, mà theo nhà thơ Xuân Diệu thì nó chiếm một nửa hứng thú của cuộc du ngoạn quần thể thắng cảnh Hương Sơn.
    Đền Trình được xếp hạng Di tích Văn hoá vào ngày 28/04/1962.


    ---------- Post added at 04:17 PM ---------- Previous post was at 04:16 PM ----------

    [h=4]Đền Và
    [/h]





    Vị trí



    Ngôi đền ở thôn Vân Gia, đọc theo nguyên âm chữ Hán là Vân Già (雲遮), xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Đền cũng gọi là đền Đông Cung vì nằm phía Đông núi Tản Viên, thờ Tản Viên Sơn thánh (một trong Tứ Bất Tử của hệ thống thần Việt Nam) và một số vị thần khác. Tương truyền, đền do Sơn Tinh xây để dừng chân khi đi du ngoạn trong vùng. Ngôi đền hiện nay có niên đại từ thời Lê Trung Hưng.



    Lịch sử



    Theo bia Vân Già đông trấn cung ký (雲 遮 東 鎮 宮 記) dựng ở đầu hồi hai bên nhà tiền tế của đền vào năm 1883 thì đền Và đã có từ thời Việt Nam thuộc ách đô hộ của nhà Đường. Đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo trong đó lần trùng tu lớn nhất là vào năm 1884. Năm Minh Mạng 12 (1831), Pháp thành lập tỉnh Sơn Tây. Tỉnh lị Sơn Tây lúc bấy giờ là nơi tập trung nhiều quan chức và giới thượng lưu nên họ cần một không gian tín ngưỡng. Đáp ứng nhu cầu này, những quan chức đã cùng với dân quanh vùng hưng công xây dựng thêm nhà tiền tế 5 gian. Từ đó đến nay, đền được trùng tu nhiều lần. Đầu năm 2008, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tây cũ cũng đã phê duyệt dự án tu bổ đền thờ với tổng kinh phí lên đến 18 tỉ đồng.



    Cảnh quan – kiến trúc



    Đền toạ lạc trên một đồi lim cổ thụ rộng khoảng 5ha. Đồi có hình con rùa, đầu quay về hướng Bắc. Bao quanh đền là bức tường cổ xây bằng đá ong để mộc nhuốm đầy rêu xanh. Nhìn tổng thể, đền Và có dạng thức biến thể của kiểu kiến trúc nội Công (工) ngoại Quốc (国).
    Đền có bố cục dàn trải tương đối cân xứng theo trục. Trên trục trung tâm phía trước sân đền có một bình phong tạo những hang mang vẻ tự nhiên. Mặt ngoài của bình phong thờ ngũ hổ với trung tâm là hổ vàng, mặt sau đắp hình long cuốn thuỷ.
    Ngôi đền bao gồm các hạng mục: nghi môn, gác chuông, gác trống, tả hữu mạc, sân rộng, nhà tiền tế và nhà hậu cung. Nghi môn đền làm theo kiểu tam quan, nhìn về phía núi Tản Viên. Gian giữa nghi môn cao 4m80, hai gian bên cao 2m15. Phía trước nghi môn là dinh ngũ hổ. Gác chuông, gác trống làm theo kiểu bình đồ vuông kiểu phương đình, 2 tầng, 8 mái. Tầng trên mở cửa tròn, mái đao cong thanh thoát. Mặt gác hướng vào sân đền, trang trí theo chủ đề ngũ phúc với hình ảnh năm con dơi xoè cánh ôm lấy cửa sổ tròn. Nhà tiền tế 5 gian được nối với nhà hậu cung bằng ống muống tạo kiểu chữ công. Đường vào hậu cung có một bộ vì lớn, làm theo kiểu thượng ván mê, hạ chồng rường trên xà nách. Bên dưới bộ vì mở ra ba cửa, hai cửa bên là hai lối đi vào hậu cung, cửa giữa là cửa thờ. Toà nhà bên trong cũng có kết cấu ba gian hai chái nhưng thấp hơn toà ngoài. Trong hậu cung đặt một bộ khám thờ cao hơn 3m, sơn son thếp vàng được chạm trổ cầu kì mang phong cách nghệ thuật thế kỉ 17. Trong cùng là bài vị của Đức Quốc mẫu (mẹ thánh Tản Viên). Tiếp đến là bài vị của Tam vị Đức Thánh Tản gồm Thánh Tản Viên và hai người em là Cao Sơn và Quý Minh. Phía toà ngoài hậu cung có 4 bức tượng kích thước như người thật đứng nhìn vào nhau, tay cầm vũ khí, khoác áo bào đỏ. Tương truyền đây là Tứ Thánh trấn 4 cung xung quanh núi Ba Vì.
    Đền có các bộ vì kèo được làm theo kiểu chồng rường kẻ bẩy trên bốn hàng chân cột. Các góc mái tạo đao cong mềm mại. Trang trí kiến trúc theo các đề tài văn mây, lá lật, tứ linh, mang đậm phong cách thế kỷ XIX và thế kỷ XX. Đền bài trí nhiều ngai và tượng thờ, nhiều hoành phi, câu đối và thư văn lồng trong khung kính, trong đó đáng chú ý nhất là 5 bản thần tích Tản Viên Sơn Thánh, 18 đạo sắc phong của các đời vua trong đó có 17 bản chính có dấu ấn, 47 câu đối được chạm khắc trên các vách, cột và 18 bức hoành phi viết trên gỗ hoặc đá. Trong đền còn có 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 tấm biển gỗ ghi lại thời gian tu sửa cũng như ca ngợi cảnh quan và công đức Đức Thánh Tản cùng nhiều thơ văn của các danh nhân. Tất cả đều mang đậm giá trị mỹ thuật và giàu giá trị Hán Nôm, là tài liệu quý giá dành cho các nhà nghiên cứu.



    Lễ hội



    Đền mở hội 3 năm một lần vào các ngày rằm tháng Chín âm lịch các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu. Hiện nay, đền Và là nơi thờ Sơn Tinh (Tản Viên Sơn thánh) và thường mở hội hằng năm vào rằm tháng Hai âm lịch. Đây là điểm du lịch hấp dẫn ở Sơn Tây thu hút khách tham quan suốt 4 mùa.
    Đền được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hoá cấp quốc gia năm 1964.



    Sự kiện "Bức tử đền Và"



    Từ khi vây dựng, Đền Và đã trải qua nhiều lần trùng tu. Vào cuối năm 2008 đầu 2009, theo dự án đã được UBND tỉnh Hà Tây cũ (nay đã nhập vào Hà Nội) phê duyệt thì đền Và tiếp tục được đầu tư tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị di sản. Thế nhưng, sự thật của dự án trùng tu này là một điều đáng tiếc trong công tác quản lí di sản và làm đau đầu các nhà nghiên cứu cũng như những người dân am hiểu, yêu mến di tích hơn ngàn năm tuổi này. Đó là do dự án được phê duyệt có nội dung là trùng tu toàn bộ những gì đang có trong khuôn viên đền Và theo hướng dỡ ra toàn bộ rồi thay thế và dựng lại bằng các nguyên liệu mới, hiện đại.
    Đến những ngày đầu tháng 1/2009, phóng viên báo Tuổi Trẻ lần đầu tiên lên tiếng về việc trùng tu đền Và làm mất đi kiến trúc cổ và kể cả việc thay thế các mảng kiến trúc cổ chưa hư hỏng bằng các vật liệu bê tông cốt thép hiện đại. Tiếp theo đó, hàng loạt báo chí, đài truyền hình, các nhà nghiên cứu và cả những người dân trong vùng lên tiếng mạnh mẽ thì UBND thị xã Sơn Tây (khi đó là thành phố Sơn Tây) đã lên tiếng nhận sai và tạm ngưng việc sửa chữa. Thế nhưng, dù nhiều tháng trôi qua, nhưng đền Và vẫn đang ngổn ngang với "đại công trình" bê tông cốt thép.
    Theo cụ Thông, người thủ từ của đền 12 năm nay thì đền còn rất vững, nếu cứ để nguyên như thế thì 30 - 50 năm nữa mới xuống cấp. Đền Và là một kiến trúc cổ đẹp, to lớn, thiêng liêng không chỉ của vùng mà của cả nước. Việc dỡ ra xây mới đền thể hiện sự thiếu hiểu biết của cấp lãnh đạo cũng như yếu kém trong việc quản lí các di tích lịch sử văn hoá.
    Hiện nay, rất nhiều di tích lịch sử có giá trị về mặt văn hoá, tâm linh đang đứng trước nguy cơ bị "bức tử" như thế này. Với những việc làm thế, ban quản lí di tích và danh thắng thực sự đã làm nản lòng các nhà nghiên cứu mong muốn gìn giữ những tài sản tinh thần và vật chất đáng giá của dân tộc. Đối mặt với hiện tượng này, nhà nghiên cứ mỹ thuật cổ Phan Cẩm Thượng cho rằng: "Nếu các di tích biến mất hoặc hiện đại hoá, chúng ta sẽ trở thành những anh nông dân thất học và anh trọc phú lắm tiền".






    ---------- Post added at 04:17 PM ---------- Previous post was at 04:17 PM ----------

    [h=4]Đền Bà Kiệu
    [/h]



    Đây là một ngôi đền cổ của Hà Nội. Theo tấm bia có niên đại 1628 còn trong đền thì đền có tên gọi là Thiên Tiên điện, thuộc phường Đông Các, nay thuộc phố Đinh Tiên Hoàng. Cũng theo văn bia và cả sách Thăng Long cổ tích khảo thì đền có tên Huyền Chân từ, nghĩa là đền Huyền Chân. Có nhiều người cũng như nhiều tài liệu lầm tưởng tên gọi là đền Huyền Trân và suy diễn đây là nơi thờ Huyền Trân công chúa đời Trần. Thực ra, Huyền là huyền diệu, Chân là chân không. Đây là từ gốc Đạo giáo.
    Đền được khởi xây năm Vĩnh Tộ, đời vua Lê Thần Tông (1619 - 1643). Đền xưa khá khang trang có tam quan nằm gần hồ Gươm. Khi Pháp làm đường Đinh Tiên Hoàng đã cắt ngang sân đền, cắt phần tam quan sang bên hồ Gươm, còn đền ở bên này phố. Đền có qui mô kiến trúc hình chữ công (工) gồm: Nhà đại bái ba gian rộng, phương đình hai tầng bốn mái, có hàng trống con tiện, vì kèo truyền thống và ba gian hậu cung được qui hoạch tập trung, tạo sự bề thế trang nghiêm. Diện mạo hôm nay là kiến trúc sau lần trùng tu năm 1883 – 1884. Đền thờ mẫu Liễu Hạnh, một phụ nữ sống thời Lê, quê ở làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, Nam Định.
    Sau khi trùng tu lần thứ nhất vào đời Lê Hy Tông (1676 - 1705), đền đã đổi tên là điện Thiên Tiên, tục gọi là đền Bà Kiệu. Đến đời Cảnh Hưng (1740 - 1786), một vị quan ở Lễ phiên thuộc Phủ chúa Trịnh lấy vườn ao nhà mình cúng cho đền để mở rộng phạm vi. Sau đó đền chuyển cho những người ở trấn Hải Dương là Lê Trọng Hiển, Lê Trọng Sinh, Hoàng Thị Bo trông nom, thờ cúng. Có thể bà Bo này có tên là Bà Kiệu nên đền mới có tên là đền Bà Kiệu (đền của bà đồng Kiệu). Ông Lê Trọng Sinh đã bỏ tiền ra xây thêm tam quan. Đến thời Tây Sơn, đền lại được tu sửa và đúc quả chuông đồng vào năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Thịnh (1800). Đến giữa thế kỉ 19, năm Tự Đức thứ 6, Quý Hợi, đền lại được sửa chữa lần nữa. Đến năm Thành Thái thứ 2 (1890), thực dân Pháp mở đường, đền bị dỡ bỏ mất phần điện phía trước.
    Đền thờ ba vị nữ thần là Liễu Hạnh công chúa, đệ nhị Ngọc nữ là Quỳnh Hoa và đệ tam Ngọc nữ là Quế Nương. Hiện nay đền còn lại tam quan, đại bái, phương đình và hậu cung. Kiến trúc này mang phong cách đời Nguyễn. Các bộ phận được chạm khắc đẹp. Đền còn giữ được các hiện vật như khám thờ, cửa võng, hương án, long ngai, bài vị, tượng, chuông, các sắc phong, các đồ thờ nhưng đều là những sản phẩm đầu thế kỉ XX. Cổ vật duy nhất của đền là tấm bia khắc năm 1628.
    Bộ di vật văn hóa - lịch sử của đền Bà Kiệu rất phong phú, đa dạng gồm bia đá, chuông đồng, hệ thống 27 sắc phong thần thuộc các triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Đền là một trong những đền mẫu được xây dựng sớm nhất ở nước ta, gắn bó với khung cảnh lịch sử văn hóa hồ Gươm và từng là nhà trưng bày chứng tích tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ.
    Đền đã được Nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa năm 1994
     
  10. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền Bạch Mã - Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội
    [/h]




    Đền Bạch Mã là một di tích lịch sử của Hà Nội cổ, ở số 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là một ngôi đền cổ của Hà Nội. Đền được dựng lên để thờ thần Long Đỗ, là Quốc Đô thành hoàng Thăng Long xưa.
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Chính điện đền Bạch Mã đầu thế kỉ XX - Ảnh tư liệu
    [/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Lịch sử và truyền thuyết
    Đền Bạch Mã là một trong "Thăng Long tứ trấn", được xây dựng từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. "Thăng Long tứ trấn" là bốn ngôi đền thờ bốn vị thần ngự từ xa xưa, ngày đêm canh giữ cho kinh thành bình yên và thịnh vượng. Đó là :
    - Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, trấn phương Đông.
    - Đền Voi Phục (Thủ Lệ) thờ Linh Lang Đại vương, trấn phương Tây
    - Đền Trấn Vũ (còn gọi là quán Trấn Vũ hay đền Quán Thánh) thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, trấn phương Bắc
    - Đền đình Kim Liên thờ thần Cao Sơn, trấn phương Nam.
    Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, hay còn gọi là Long Đỗ Thần Quân Quảng Lợi Bạch Mã Đại Vương. Tương truyền rằng, vào thế kỷ IX, viên quan đô hộ nhà Đường (Trung Quốc) là Cao Biền đắp La Thành. Khi ra ngoài Cửa Đông, thấy một người lạ trong đám mây ngũ sắc. Biền vốn là đạo sĩ nên có ý muốn trấn áp. Đêm, Biền nằm mộng thấy người đã gặp. Người đó tự xưng là Long Đỗ. Cao Biền đem chiếc búa bằng đồng đi chôn yểm. Đêm hôm sau, trời nổi mưa gió. Sáng ra, thấy chiếc búa đồng bị đánh tan như cát bụi, Biền sợ và lập đền thờ. Năm 1010, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, định đắp thành, nhưng nhiều lần thành đắp lên lại bị sụp đổ. Vua cho người cầu khẩn ở đền thờ thần Long Đỗ thì thấy một con ngựa trắng từ trong đền đi ra. Vua lần theo dấu vết chân ngựa để vẽ đồ án xây thành, thành mới đứng vững. Thần được Lý Thái Tổ phong làm Thành hoàng của kinh thành Thăng Long. (Thần Long Đỗ, tức Thần núi “rốn Rồng” cũng gọi là thần núi Nùng (hiện nay nằm trong Thành cổ Hà Nội). Tương truyền núi có khe thông sâu xuống đất, tiếp nhận khí thiêng sông núi. Văn bia Trùng tu Bạch Mã miếu bi ký có niên đại Minh Mệnh nguyên niên (1820), hiện còn tại đền cho biết: “Ngài là vị Thành hoàng của kinh thành Thăng Long… Thần một thôn, một ấp đều được tôn kính, huống đây là vị thần chủ tể một khu vực ngàn dặm, được hàng trăm đời vua cúng tế. Các công lao ban phúc cho đất nước, giúp đỡ cho nhân dân, trong đó, cả đô thành và lân ấp đều được nhờ cậy”).
    Một số sách cổ như Việt Điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái cho biết đền Bạch Mã được xây dựng vào cuối thời Bắc thuộc (thế kỷ IX). Cụ thể là đền được Cao Biền xây từ năm 866 và được hoàn thiện vào năm 1010 dưới thời vua Lý Thái Tổ. Sự hiện diện của ngôi đền thời Lý, Trần cũng được nhắc đến qua chi tiết vua Lý Thái Tổ “cho người cầu khấn ở đền Long Đỗ” khi đắp thành Thăng Long như đã nói trên và bài thơ của Thái sư Trần Quang Khải ca ngợi sự linh thiêng của ngôi đền:
    Hoả tức tam diên thiêu bất cập
    Phong lôi nhất trận triển nan khuynh
    Tạm dịch :
    Lửa bốc ba lần không cháy đến
    Gió lừng một trận chẳng hề nghiêng
    Hệ thống bia đá hiện còn tại di tích cho biết đền được mở rộng vào niên hiệu Chính Hoà thời Lê (1680 - 1705). Đến năm Minh Mệnh nguyên niên triều Nguyễn (1820), đền được tu bổ; năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), sửa lại đền, dựng riêng văn chỉ ở bên trái, xây thêm phương đình ở phía trước đền để làm nơi cúng lễ trong các ngày tuần tiết. Trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, di tích được tu bổ lớn trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng cũ.
    Đền Bạch Mã xưa thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức - là nơi cửa sông Tô Lịch thông với sông Hồng - hai dòng sông huyết mạch của Hà Nội cổ, nay là phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
    Đền có quy mô bề thế, còn lưu giữ những nét kiến trúc đặc sắc thời Lý, Trần.
    Trong các di tích thuộc “Tứ trấn” - bao gồm đền Quán Thánh trấn phía Bắc, đình Kim Liên trấn phía Nam, đền Voi Phục trấn phía Tây và đền Bạch Mã trấn phía Đông thì đền Bạch Mã được xây dựng sớm hơn cả và sự có mặt của nó ở thời Lý, Trần đã khẳng định điều đó. Đền tồn tại ngay trong lòng phố cổ, với nhiều màu sắc, yếu tố nghệ thuật kiến trúc cùng một hệ truyền thuyết đầy tính lịch sử và triết học về vị thần được thờ nên mang nhiều vẻ đặc sắc, trước sau vẫn giữ nguyên giá trị về một mốc giới thiêng của kinh thành Thăng Long nghìn năm văn hiến.
    Kiến trúc
    Đền Bạch Mã là ngôi đền lớn, có kiến trúc cổ, quy mô bề thế và giữ được những nét truyền thống từ thời Lý - Trần. Đền được xây theo hình chữ Tam, bên ngoài là phương đình tám mái, có một tam bảo và hơn 13 hoành phi, văn bia nói về thần Long Đỗ và Bạch Mã. Trong quan niệm người phương Đông, ngựa trắng đồng nhất với mặt trời mọc ở phương Đông nên đền được cho là trấn phương Đông của kinh thành.
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đền Bạch Mã - Ảnh : picasa
    [/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Hiện nay, ngôi đền là một kiến trúc đẹp quay về hướng Nam, gồm có cổng tam quan, phương đình, đại bái, thiêu hương, cung cấm và nhà hội đồng ở phía sau.
    Tam quan có mặt bằng hình chữ nhật, chia thành năm gian với bốn bộ vì giống nhau kiểu “chồng rường giá chiêng hạ bảy”, một số thanh rường chạm hoa văn hình học, mặt trước, gian giữa mở lối vào đền bằng cánh cửa gỗ lớn. Ngay sát phía sau là kiến trúc phương đình. Phần kiến trúc này có mặt bằng hình vuông. Bộ mái làm hai tầng, mỗi tầng bốn mái có các góc đao cong. Bộ khung nhà được làm bằng gỗ, gồm bốn cột cái kê trên chân tảng đá hình lục giác tạo thành hai bộ vì. Vì được làm kiểu “Giá chiêng chồng rường”, dưới mỗi thanh rường có đấu kê chạm hình cánh sen, trong giá chiêng có bức cổn chạm nổi một hình chim phượng đang xoè rộng cánh. Các bức ván gió giữa các thanh xà trang trí tứ quý, bát bửu. Đặc biệt, giữa xà hạ và xà trung của mỗi vì có hai tượng nghê lớn bằng gỗ hướng mặt vào lòng nhà. Trong kết cấu của nhà, phương đình được sử dụng hệ thống “củng ba phương”, vừa có tác dụng đỡ góc mái, vừa có tác dụng trang trí và treo đèn lồng trong các ngày lễ hội.
    Kiến trúc lớn nhất trong đền là nhà đại bái. Nhà chia thành năm gian rộng lòng, nền nhà được bó toàn bằng đá xanh hình khối chữ nhật chắc chắn. Đỡ mái là bộ khung nhà được làm toàn bằng gỗ với hệ thống cột có số lượng nhiều và kích thước lớn, kê trên chân tảng đá hình tròn. Sáu bộ vì được làm theo hai kiểu: hai vì hồi làm kiểu kẻ chuyền; bốn vì giữa làm giống nhau kiểu “thượng chồng rường giá chiêng hạ bảy”. Trang trí trên kiến trúc của toà nhà này được thể hiện chủ yếu trên hai bộ vì gian giữa dẫn vào chính điện, chạm các hình tứ linh trên nền văn xoắn, hình đầu rồng trên các đầu dư.
    Thiêu hương và cung cấp có ngoại dạng tương đối giống nhau. Phần mái làm thành hai tầng, tầng trên hai mái, tầng dưới bốn mái có các góc đao cong. Bộ khung nhà được dựng bởi hệ thống cột gỗ lớn, các bộ vì đỡ mái được làm kiểu “giá chiêng chồng rường” và các xà thượng, hạ chạy ngang dọc khắp năm gian nhà. Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc ở đây không nhiều, chỉ có một vài thanh rường, đấu kê chạm hình chữ “thọ” hoặc hình lá có diềm răng cưa. Trong cung cấm có một sàn gỗ cao, có ván bưng ba mặt để làm nơi toạ lạc của thần Bạch Mã.
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG] [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Tượng Bạch Mã được thờ trong đền - Ảnh : internet
    [/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Nối phương đình, đại bái với thiêu hương là một vòm “vỏ cua” hình bán nguyệt trang trí hoa lá. Vỏ cua tạo không gian rộng thêm cho kiến trúc, nhờ đó mà phương đình, đại bái, thiêu hương và cung cấm trở thành một kiến trúc khép kín, mặt bằng nội thất trở nên rộng rãi. So sánh với các kiến trúc tương tự nhưng không có loại kết cấu “vỏ cua”, thì mặt bằng chia ra từng phần, không gian sử dụng ít đi và mưa nắng tự nhiên gây nên sự xuống cấp cho kiến trúc.
    Bên cạnh nghệ thuật trên kiến trúc là nghệ thuật thể hiện trên các di vật có tại di tích. Trừ một số bia đá có niên đại thế kỷ XVII, hầu hết là những hiện vật mang nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XIX - XX. Những con vật long, ly, quy, phượng trên cửa võng là biểu tượng của sự bền vững thanh cao, cũng giống đất trời chuyển vận quanh năm không bao giờ ngừng, không có bắt đầu và cũng không bao giờ kết thúc, tiêu biểu cho sự vĩnh hằng. Đôi hạc thời Nguyễn chân cao, cổ cao, đường nét mềm mại uyển chuyển đặt trên lưng rùa, phản ánh quan niệm cổ xưa của dân gian Việt Nam - biểu tượng của sự bền vững thanh cao như cái tâm vĩnh hằng của con người với trời đất. Có thể nói, nghệ thuật - kiến trúc đền Bạch Mã đã kết hợp được tinh thần nghệ thuật - kiến trúc từ các giai đoạn trước và gắn kết vào tinh thần kiến trúc nghệ thuật thế kỷ XIX.
    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, bom B52 rải thảm ở miền Bắc, mọi thứ xung quanh đền đều bị tàn phá, riêng ngôi đền vẫn còn đó. Hiện ngôi đền vẫn giữ nguyên kiến trúc nhưng được sắp xếp lại theo cấu trúc Tam nguyên đồng hóa - tức là thêm điện thờ Phật và Mẫu. Lễ hội đền hàng năm diễn ra vào tháng hai âm lịch. Đền được Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia vào năm 1986. Trước đây người ta còn tổ chức đánh trâu rước xuân vào đúng hội... Nằm ngay giữa phố Hàng Buồm, giữa những lô xô mái ngói rêu phong phố cổ, đền Bạch Mã trở thành một điểm nhấn của bức tranh phố cổ Hà Nội.


    ---------- Post added at 04:18 PM ---------- Previous post was at 04:18 PM ----------

    [h=4]Đền Phấn Thượng
    [/h]Đền ở làng Phấn Thượng, xã Phụng Thượng, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây cũ, nay là thành phố Hà Nội, nằm cách quốc lộ 32 khoảng 100m. Đền được lập về đời Hậu Lê (thế kỷ XVII - XVIII), thờ các tướng sĩ trận vong, có voi đá, ngựa kỷ niệm trận đánh giữa Lê - Mạc thế kỷ XVI.


    ---------- Post added at 04:18 PM ---------- Previous post was at 04:18 PM ----------

    [h=4]Đền Nam Thiên Hoàng Đế
    [/h]





    Đền ở huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội), thờ thần Quảng Xung, là con của Kinh Dương Vương. Truyền thuyết nói vua Lê đi tuần qua miền này thì gặp bãi cát, thuyền không tiến lên được. Vua lên bờ vào đền làm lễ cầu đảo, dòng sông lại thông suốt. Vua liền phong thần là Nam Thiên Hoàng Đế.


     
  11. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền Ngọc Sơn
    [/h]




    Lịch sử


    Theo các tài liệu lịch sử còn lưu lại thì đền Ngọc Sơn ra đời khá muộn, chỉ từ giữa thế kỉ XIX. Theo sách La Thành cổ tích vịnh của Trần Bá Lãm được viết vào thời Lê Chiêu Thống (1786 - 1788) có mục Vịnh Hồ Tả Vọng nhưng tuyệt nhiên không nhắc gì đến một ngôi đền nào trong hồ. Sách Thăng Long cổ tích khảo (khuyết danh) soạn đầu thời Gia Long (1802 - 1820), ở mục hồ Hoàn Kiếm cũng không nhắc đến ngôi đền hay chùa nào ở đây. Như vậy có thể khẳng định đền Ngọc Sơn ra đời sau thời Gia Long, chính xác là cuối thập kỉ 40 của thế kỉ XIX. Bằng chứng rõ nhất còn lưu lại là trên hai tấm bia hiện còn ở đền, một tấm khắc năm 1843, một tấm khắc năm 1865 - 1866. Bia năm 1843 do Vũ Tông Phan soạn, có tên là Ngọc Sơn đế quân từ kí có nội dung là: "Hồ Tả Vọng tên cũ gọi Hoàn Kiếm là danh thắng của đất kinh kì xưa. Phía Bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào, tương truyền là chỗ đài câu cuối thời Lê. Trước đây ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đây bèn mở rộng sửa thêm gọi là chùa Ngọc Sơn. Phía Nam trước mặt chùa dựng một gác chuông. Lâu năm, chùa hư nát, tưởng như tiêu vong.
    Ngày gần đây, hội Hướng Thiện do những người khoa mục lập ra... vốn thờ Văn Xương đế quân mà chưa có đền. Các con ông Tín Trai tình nguyện nhường lại nơi này... Hội sửa lại đền Quan Đế, dỡ bỏ gác chuông cải thành đền Văn Xương. Đền có ba gian, ở giữa thờ tượng thánh mới làm, hai bên chái mỗi bên một gian, các phòng Đông Tây đều năm gian. Bắt đầu xây dựng từ mùa đông Tân Sửu (1841) đến mùa thu Nhâm Dần (1842) thì hoàn thành".
    Như vậy, theo văn bia này thì đền bắt nguồn từ một ngôi chùa. Từ năm 1841 - 1842, trong đền vừa thờ Phật, thờ Quan Đế và Văn Xương.
    Tấm bia thứ hai là do Lương Hiên Đặng Huy Tá, lúc đó là Án sát Hà Nội soạn. Tên bia là Trùng tu Văn Xương miếu bi kí cho biết: "Phía Đông làng Hà Thanh có hồ Hoàn Kiếm, trong hồ có đảo gọi là núi Ngọc, trong núi có miếu Văn Xương. Tôi vừa làm Án sát Hưng Yên đổi về, gặp ông Phương Đình, dắt nhau qua chơi, ông nói với tôi: "Hồ này đời xưa lớn, từ Lê Trung Hưng chở đất lấp, làm đường xe chạy, suốt đến Long Lâu ở Nhĩ Hà. Nửa hồ bên hữu là Hữu Vọng, nửa hồ bên tả là Tả Vọng, núi trong Tả Vọng là đài câu cá. Đầu đời Gia Long mới có miếu Quan Đế. Đến đời Thiệu Trị làm miếu khác thờ Văn Xương. Gần đây có Án sát Nguyễn Như Cát thăm đền thương cảm vì quy mô quê kệch và không tu sửa thì sẽ đổ nát nên đề nghị quyên tiền làm lại. Nhưng chưa kịp làm thì bổ sang tỉnh Đông. Tôi thay ông ấy chủ trương việc này". Nay đền mới đã hoàn chỉnh, phía trước kề bờ nước làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa dòng Văn. Bên tả, phía đông cầu Thê Húc dựng đài Nghiên, lại phía đông trên núi Độc Tôn xây Tháp Bút, tượng trưng cho văn vật. Qua ba bốn năm mới làm xong, nhờ tôi làm bài kí".
    Bài văn bia này không có niên đại, nhưng theo đánh giá của các nhà sử học thì nó được dựng vào khoảng năm 1865 - 1866.

    Kiến trúc


    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Cổng vào đền Ngọc Sơn - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Đền Ngọc Sơn hiện nay nằm trên đảo Ngọc. Dẫn ra đền có hệ thống các cổng và một cây cầu gỗ được gọi là cầu Thê Húc.
    Cổng chính vào đền Ngọc Sơn nằm trên hè phố Hàng Dầu. Lớp cổng đầu tiên gồm có bốn cây cột xây bằng gạch và hai mảng tường lửng. Ở mỗi cây cột đều có đắp những câu đối chữ Hán, vừa làm tăng vẻ cổ kính của di tích vừa giúp khách tham quan hiểu thêm lịch sử và cảnh quan về di tích cũng như cảm nhận chất thơ, chất văn học và cả tinh thần triết học thấm đẫm ở các nội dung thờ tự nơi đây.
    Ở hai cột chính cổng vào đền có hai câu đối:
    Lâm thuỷ đăng sơn nhất lộ tiệm nhập giai cảnh
    Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn phong quang
    Dịch nghĩa:
    Đến cõi nước, trèo lên non, một lối dẫn dần vào cảnh đẹp
    Tìm nguồn cội, hỏi chuyện xưa, trong chốn này biết mấy phong quang
    Ở cổng đền, trên hai mảng tường ở hai bên có hai chữ Phúc và Lộc cỡ lớn, tô son như lời chúc mọi sự tốt lành cho du khách đến tham quan. Bên trên hai chữ đại tự còn có hai hàng đề từ, một bên là ba chữ Ngọc ư tư, nghĩa là Ngọc ở đây, một bên là ba chữ Sơn ngưỡng chỉ nghĩa là Ngữa trông núi. Hai câu này có nguồn gốc từ Luận ngữ và Kinh thi là Hữu mỹ ngọc ư tư (có ngọc đẹp ở đây - Luận ngữ) và Cao sơn ngưỡng chỉ (Ngửa trông núi cao - Kinh Thi). Ý nghĩa của hai câu đề từ là "ngọc" để nói về phẩm chất cao đẹp và "núi cao" là chỉ bậc hiền tài.
    Qua khỏi cổng đền, bên trái là một tháp bằng đá xây trên ngọn núi cũng do đá xếp thành. Núi có đường kính 12m, cao 4m. Tháp vuông có năm tầng, cạnh đáy tầng một là 2m, lên đến tầng năm là 1,2m. Cả năm tầng cao 28m. Trên tầng năm là ngọn bút lông, cả cán và ngòi cao 0,9m. Như vậy tổng cộng ngọn tháp cao 28,9m. Cụm kiến trúc này được gọi là Tháp Bút. Ngọn núi chồng bằng đá bên dưới Tháp Bút là núi Độc Tôn. Ngoài ra, phía dưới núi, gần miếu còn có một tấm bia nhỏ khắc năm chữ Hán "Thái Sơn thạch cảm đương".
    Qua Tháp Bút, tới lớp cổng thứ hai. Lối đi được giới hạn bằng hai cột trụ, trên có hai câu đối:
    Nhân gian văn tự vô quyền toàn bằng âm đức
    Thiên thượng chủ tư hữu nhãn đơn khán đan điền
    Có thể giải thích nghĩa của hai câu đối này như sau:
    Ở chốn nhân gian thì quyền chân chính chính là sự tu dưỡng đạo đức, mà đó lại là âm đức (là sự làm ơn làm phúc một cách vô tư)
    Trên trời, ông thánh xem xét việc khảo thí nhân gian chỉ soi chính lòng dạ của con người.
    Ở hai bên cột trụ xây hai cửa nách giả kiểu hai tầng tám mái cong. Mặt trước của hai cửa này đắp nổi một bên là rồng cuộn khúc đón đàn cá đang thi nhau vượt sóng, bên trên có hai chữ Long Môn và một bên là một chú Hổ trắng như đang tiến ra phía ngoài, bên trên có hai chữ Hổ Bảng. Đây là hình tượng được khắc hoạ theo hai điển tích cổ.
    Hai bên Long Môn - Hổ Bảng có hai câu đối vừa giải thích ý nghĩa của điển tích, vừa xưng tụng toà Tháp Bút trước mặt:
    Hổ Bảng Long Môn thiện nhân duyên pháp
    Nghiễn Đài Bút Tháp đại khối văn chương
    Dịch nghĩa:
    Bảng Hổ, Cửa Rồng là để biểu dương nhân quả của người làm điều tốt
    Đài Nghiên, Tháp Bút là để mô tả văn nghiệp của đất trời vĩ đại.
    Như vậy, đây là những biểu tượng khuyến học của Nho giáo.
    Qua cổng Long Môn - Hổ Bảng, đường vào đền thu hẹp lại vì hai bên lề có xây hai dãy tường hoa thấp. Cuối con đường là lớp cổng thứ ba.. Khác với hai lớp cổng ngoài có bốn hàng cột hay lớp cửa trống, lớp cổng này có tường cao, có mái, cửa cuốn, cánh cửa gỗ sơn son. Trên mái đặt một cái nghiên đá cho nên cổng cũng có tên là Nghiễn Đài (đài Nghiên). Đây là một cái nghiên được tạc từ cả một tảng đá xanh, hình quả đào cắt ngang theo chiều dọc, khoét lõm lòng chảo, bề dài quả đào 0,97m, bề ngang 0,8m, cao 0,3m, chu vi khoảng 2m, được làm từ lần trùng tu năm 1865. Nghiên được đội trên lưng ba con thiềm thừ (con cóc).
    Ở khoảng giữa vòm cửa và hai chữ Nghiễn Đài có đắp bức cuốn thư bên trong là những dòng chữ Hán. Những dòng chữ đó cũng chính là bài minh khắc ở nghiên đá được đắp lại nhưng lại được viết theo lối chữ thảo.
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Cầu Thê Húc - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Ra khỏi đài Nghiên là cầu Thê Húc. Thê có nghĩa là đậu, húc là ánh sáng ban mai. Cầu Thê Húc nghĩa là cầu có ánh sáng ban mai đậu lại. Tuy nhiên, ban đầu, cầu chỉ là những tấm ván đặt dọc theo mặt phẳng trên các hàng cột chôn trong nước và không có tay vịn. Có lẽ về sau, qua những lần trùng tu, người ta mới làm đẹp cho cầu, làm cầu cong lên như hình cầu vồng, lại sơn đỏ cho hợp với cái tên '"nơi đậu ánh sáng ban mai", làm thêm cả tay vịn cho an toàn. Theo các tấm bia dựng trong đền thì di tích đền Ngọc Sơn có ít nhất ba lần sửa chữa: năm 1886 tu bổ toàn bộ khu đền, năm 1889 sửa cầu Thê Húc, năm 1916 sửa lại cầu Thê Húc lần nữa. Trong chiến tranh 1947 - 1954, cầu lại được tu bổ một lần nữa. Chưa rõ hình dáng cầu vồng như hiện thấy là có từ lần nào nhưng đến nay thì được biết rằng cầu dài 45m, 15 nhịp, mỗi nhịp 3m, mặt cầu rộng 6m.
    Sang hết 15 nhịp cầu sơn đỏ là đến lầu Đắc Nguyệt (được trăng). Đây là một lầu nhỏ xinh xắn, gồm hai tầng. Tầng hai có hai mái. Trên tầng hai nhìn ra hồ, phía đông có 1 cửa sổ tròn. Trên cửa có tấm biển khắc ba chữ Đắc Nguyệt Lâu, lấy ý từ câu thơ cổ: Cận thuỷ lâu đài tiên đắc nguyệt, có nghĩa là vì ở gần nước nên toà lầu đón được trăng trước tiên. Hai bên cửa sổ còn có hai câu đối:
    Bất yếm hồ thượng nguyệt
    Uyển tại thuỷ trung ương
    Dịch nghĩa:
    Trăng trên hồ ngắm bao nhiêu cũng không chán
    Cứ như dầm mình trong làn nước miên man
    Ở hai bên cổng cũng có hai câu đối tả cảnh:
    Kiều dẫn trường hồng thê đảo ngạn
    Lâu đương minh nguyệt toạ hồ tâm
    Nghĩa là:
    Cầu dẫn dải cầu vồng đậu vào bờ đảo
    Lầu in vầng trăng sáng nằm trong lòng hồ
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Long Mã hà đồ - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Khoảng giữa cửa và hai câu đối là hai bức tranh đắp nổi, bên bờ Bắc là bức Long Mã hà đồ, bên phía Nam là bức Thần Quy lạc thư. Ở bức Long Mã hà đồ có đắp nổi hình con ngựa đầu rồng, trên lưng có đeo bát quái. Đây là truyền thuyết về vua Phục Hi dựa vào các nét vẽ trên lưng con Long Mã lập ra bảng Bát quái toàn đồ, sau này gọi là Hà đồ. Đó là những con số đếm cũng là những chữ viết đầu tiên của dân tộc Trung Hoa. Về bức Thần Quy lạc thư đắp nổi hình con rùa mang trên mai một cây kiếm và một hộp sách cũng dựa theo một truyền thuyết về vua Đại Vũ khi đi trị thuỷ ở sông Lạc thì thấy nổi lên một con rùa, trên lưng có những chấm đen đặc biệt theo một trình tự. Ông dựa vào các chấm đó mà tạo ra Cửu trù (chín khoảnh). Đời sau gọi là Lạc thư. Từ Hà đồ và Lạc thư mà hình thành nên bộ Kinh Dịch.
    Qua lầu Đắc Nguyệt đi vào phía trái để vào khu đền. Dọc đường đi, một bên là mấy gian nhà thời trước là chỗ hội họp nghe giảng kinh sách, một bên là dãy tường hoa. Ở dãy tường này, trên các cột cũng có đắp nổi nhiều câu đối hay như:
    Nhất trần vô nhiễm sắc
    Tứ tự giai thường xuân
    Dịch nghĩa:
    Mây bụi không chút gợn
    Bốn mùa thảy đều xuân
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Thần Quy lạc thư - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Hay như:
    Bình hồ trường nhật nguyệt
    Cố điện tiểu càn khôn
    Dịch nghĩa:
    Hồ phẳng dài cùng năm tháng
    Điện xưa thu nhỏ đất trời
    Hay như:
    Cô sơn mộc ấm tam thiên giới
    Chước thuỷ ba trừng cửu thập xuân
    Dịch nghĩa:
    Một ngọn núi côi, cây rợp bóng, che tam thế giới (tức vũ trụ)
    Một môi nước, sóng trong lặng, suốt chín chục ngày xuân
    Ở đoạn giữa tường hoa này có một kiến trúc nhỏ mang tên Kính Tự đình (đình kính trọng chữ viết). Đây là nơi xưa kia các cụ đốt những mẩu giấy có viết chữ vì các cụ xem chữ là của thánh hiền nên không thể xem như rác, không thể vứt bỏ bên đường được. Qua đình Kính Tự, trước mắt du khách hiện ra một vọng cảnh đẹp: Xa xa, phía Tây Nam hồ là Tháp Rùa, trước mặt là đình Trấn Ba. Đình Trấn Ba là một kiến trúc thanh thoát và đậm chất thơ. Bốn cây cột cái bằng gỗ và bốn cây cột góc bằng đá đỡ lấy hai lớp mái thanh thoát như đang vút bay lên thinh không.
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Trấn Ba Đình - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Đối diện với đình Trấn Ba là ba nếp đền ẩn hiện dưới những tán cổ thụ um tùm. Đây là khu trung tâm của cả quần thể di tích, về mặt kiến trúc cũng như về mặt thờ phụng. Các nếp nhà sắp xếp theo hướng từ phía Nam lên phía Bắc.
    Nếp thứ nhất gồm ba gian xây theo kiểu tường hồi bít đốc, dạng hai tầng bốn mái. Đỡ mái là bộ vì kèo có kết cấu "thượng giường giá chiên, hạ bẩy". Các con hoành của hai mái dưới được đặt trên một kẻ cong dài. Nền nhà cao 0,3m so với mặt sân. Hệ thống cửa bức bàn, chạm khắc hoa lá. Đó là nhà tiền tế, có tàn, có tán, có hương án và có đôi chim anh vũ, tức chim vẹt, thếp vàng, tạo hình đẹp.
    Nếp thứ hai cũng ba gian tường hồi bít đốc nhưng lòng nhà rộng hơn. Bộ khung đỡ mái theo kiểu thượng giường hạ kẻ. Nền cao hơn so với nhà tiền tế. Hệ thống của bức bàn chạm cầu kì hơn, hình chữ thọ, con dơi, rồng, phượng, long mã chở Hà đồ, thần rùa mang Lạc thư... Ở cung ngoài, gian chính giữa đặt hương án, đồ thờ và sập thờ. Có ba lớp tượng: ngoài cùng là lớp tượng Quan Vũ cùng hai tuỳ tướng là Châu Xương, Quan Bình. Tượng Quan Vũ cao 1,35m trong tư thế ngồi trên bệ, mặt đỏ, râu dài, mũ có vạt phủ xuống lưng, trên chỏm có buộc dây lụa, trong mặc áo giáp, ngoài khoác áo choàng xanh, hộ tâm kính có hình rồng, tay phải úp lên đùi, tay trái giơ ngang ra phía trước, chân đi hài. Tượng Châu Xương cao 0,9m, râu quai nón, mũ bó có chóp, đứng hầu bên phải tượng Quan Vũ, áo chẽn màu đỏ và xanh, cầm thanh long đao. Tượng Quan Bình cao 0,88m, nho nhã, áo thụng mũ võ sinh, áo bào đỏ, đứng bên trái tượng Quan Vũ hai tay giơ ra như cầm một vật gì đó (nhiều ý kiến cho rằng vật đó chính là hòm đựng ấn của Quan Vũ, hiện nay đã không còn).
    Lớp giữa là tượng Lã Tổ, hai bên có tượng Thiên Khôi, Thiên Việt. Tượng Lã Tổ tạc ngồi trên bệ, cao 1,35m, đội mũ đạo sĩ, mặc áo vàng , dáng đĩnh đạc, tay trái đặt trên đùi, tay phải giơ ngang vai bắt quyết (có vẻ là quyết Chuẩn đề). Tượng Thiên Việt cao 1,1m có hình dáng một ông lão đạo mạo, mũ nhị cấp áo thụng có hình rồng lân. Thiên Khôi mang hình dáng của một tiểu quỷ, mặt xanh, có sừng, mình trần, quần ngắn, cổ tay cổ chân đeo vòng, thắt lưng đỏ, tay trái cầm sách, tay phải cầm bút giơ ngang đầu, một chân đứng trên lưng con giao long, một chân giơ lên.
    Lớp trong là tượng Văn Xương cao 1,44m, ngồi trên long ngai trong khám thờ. Mặt tượng hơi dài, đầu đội mũ cánh chuồn, mình mặc áo bào xanh trang trí hình rồng mây suốt từ ngực xuống, gấu áo hình sóng nước. Tay phải úp trên đùi, tay trái ngửa, có ngón hơi khép lại để giữ một quyển sách. Hai bên có tượng thị nữ đứng hầu. Khám thờ Văn Xương là một khám đẹp, diềm trên trang trí lưỡng long chầu nguyệt, phía dưới chạm thủng cúc dây. Diềm cửa trang trí rồng mây. Giá đỡ phía dưới có hàng lan can hình con tiện, đế khám dạng chân quỳ.
    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Nếp thờ thứ nhất trong đền - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Ngoài ra ở nếp nhà thứ hai nay, hai bên tường hồi có hai bàn thờ, thờ những vị góp công của tôn tạo đền miếu, bài vị to, trên viết dòng chữ "Tiền hậu công đức tả ban liệt vị" và "Tiền hậu công đức hữu ban liệt vị".
    Nếp thứ ba thường gọi là cung cấm hoặc hậu cung, hẹp lòng nhưng cao hơn cả, hiện là nơi thờ Trần Hưng Đạo. Tượng cao 1,1m, ngồi trong khám thờ đặt trên bệ gạch xây cao tới 1m, hai bên có hai bậc tam cấp bằng đá. Tượng được thể hiện trong tư thế ngồi, đội mũ có ba vành trang trí, ở giữa chạm mặt nguyệt, hai cánh chuồn đứng. Tượng có khuôn mặt vuông vức, tô đỏ thắm, mắt nhìn thẳng, tai dài có thành có quách. Áo đại trào trang trí rồng mây, tay trái đặt trên đùi, tay phải cầm sách. Bên ngoài khám trên có hai pho tượng văn ban, võ ban đứng hầu. Ở hai bên khám hậu có hai ban thờ, bên phía Đông là bàn thờ chung "bản địa sơn thuỷ tôn thần". Bên phía Tây là bà vị đức Thánh: "Trần triều thượng phụ Hưng Đạo đại vương".
    Giữa nếp thứ hai và nếp thứ ba có một nhà cầu để khách nghỉ chân, đồng thời là chỗ để đứng lễ.
    Việc thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở hậu cung - nơi thiêng liêng nhất - chứng tỏ tính trội của tính ngưỡng bản địa. Ông là một nhân vật lịch sử. Trong hậu cung có nhiều bức hoành phi, câu đối ca ngợi nhân vật này như Hạo khí lăng tiêu (Hạo khí ngất trời), Thiên cổ vĩ nhân (Vĩ nhân của muôn đời).
    Câu đối chữ Nôm trong gian thờ Trần Hưng Đạo:
    Vũ lược luyện hùng binh Lục Thuỷ nghìn thu ghi sử Việt
    Văn tài mưu thượng tướng Bạch Đằng một trận thắng quân Nguyên
    Câu đối chữ Hán:
    Vị quốc vị nhân dân văn vũ thánh thần lưu hiển hiệu
    Tại thượng tại tả hữu thông minh chính trực tán huyền cơ.
    Dịch nghĩa:
    Vì đất nước, vì nhân dân, thánh thần văn võ lưu truyền tên hiển hách
    Ở bên trên, ở tả hữu, thẳng ngay sáng suốt giúp đỗ máy huyền vi
    Ở đền Ngọc Sơn, bên trái tượng Lã Tổ là tượng Thiên Việt nho nhã. Bên phải là tượng Thiên Khôi. Đây là hai ngôi sao trông coi về văn chương và khoa cử.
    Qua bao thăng trầm của lịch sử, các di tích đình, đền, chùa , miếu ở Thăng Long - Hà Nội đã bị phá huỷ nhiều lần. Đền Ngọc Sơn cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có một việc mới thay đổi nhưng có giá trị tích cực là việc ban quản lí di tích đã chuyển căn phòng phụ vốn là nơi để ván in sách cũ (đã chuyển về kho của ngành văn hoá) thành nơi trưng bày một tiêu bản rùa hồ Gươm. Tiêu bản này có từ năm 1968. Lúc đó, rùa cân nặng 250kg, bề dọc 2,1m, bề ngang 1,2m. Theo các nhà nghiên cứu thì đây là một loại rùa nước ngọt hiếm chỉ có ở hồ Gươm.
    Trong đền còn có nhiều văn vật có giá trị:
    - Ba quả chuông đồng lần lượt đúc với các tên gọi khác nhau chút ít: Ngọc Sơn miếu chung đúc năm 1871, Ngọc Sơn điện chung đúc năm 1883, Ngọc Sơn từ chung đúc năm 1924.
    - Một khánh đồng có chữ Ngọc Sơn linh từ khánh đúc năm 1870
    - Bảy tấm bia đá. Trong số bia đó, giá trị nhất là tấm bia Ngọc Sơn đế quân từ kí gắn ở tường hậu cung do Vũ Tông Phan soạn. Còn lại là các bia công đức ghi tên những người góp của tu sửa đền. Có những tấm bia như Khải Định Bính Thìn trùng tu nội điện cập tu bổ Thê Húc kiều, Trấn Ba đình quyên ngân phương danh bi kí cũng gắn ở tường hậu cung.

    Sự kiện


    Khi nói về đền Ngọc Sơn cần nói thêm một khía cạnh hoạt động yêu nước với những hình thức tuyên truyền văn hoá, giáo dục chống Pháp.
    Nguyên đền Ngọc Sơn từ sau khi thành lập, bên cạnh tiến hành các nghi lễ tôn giáo, hội Hướng Thiện còn dùng làm nơi giáo dục điều thiện. Hội này là một tập hợp các nhà nho yêu nước đương thời, như Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu nhằm mục đích tuyên truyền giáo dục điều thiện cho dân chúng. Các hội viên tổ chức giảng đạo lí nhân nghĩa để duy trì thuần phong mỹ tục. Hội còn tổ chức khắc ván in nhiều loại sách khác nhau như sách thuốc, kinh của Đạo giáo, sách luận về tín ngưỡng.
    Từ khi Pháp xâm chiếm (1882) nhiều hội thiện khác như Lạc Thiện, Tập Thiện, An Lạc cũng lấy đền Ngọc Sơn làm nơi tuyên truyền chống Pháp. Vào những năm đầu thế kỉ XX, các cụ Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can đã cho xây Kinh đàn để giảng kinh (nay là nhà bán đồ lưu niệm ở phía trái đền chính).
    Đối với nhiều người Hà Nội, đền Ngọc Sơn không chỉ là một địa điểm tâm linh mà còn là một quần thể kiến trúc có non, có nước, có tháp, có đài, có cầu, có đình, có cây cổ thụ... lồng ghép vào nó là văn chương, tín ngưỡng, huyền thoại, lịch sử và cả truyền thống văn hoá, đấu tranh cách mạng của dân tộc.
    Các bộ phận kiến trúc của khu di tích đã tạo nên sự hài hoà, đan xen không thể thiếu trong danh thắng hồ Gươm. Bề dày lịch sử văn hoá của hồ và đền từ lâu đã là niềm tự hào của người Hà Nội nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.


    ---------- Post added at 04:19 PM ---------- Previous post was at 04:19 PM ----------

    [h=4]Đền Kim Giao
    [/h]Đền Kim Giao toạ lạc tại xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc (nay thuộc thành phố Hà Nội). Đền thờ Lý Nam Đế (Lý Bí), tôn hiệu là Quốc Vương thiên tử Ất Lý Lã Nam Đế. Ngày nay ở xã này vẫn theo lệ kiêng huý, gọi bí là bầu.

    ---------- Post added at 04:20 PM ---------- Previous post was at 04:19 PM ----------

    [h=4]Đền Lê Văn Trinh
    [/h]Đền ở thôn Mộc Hoàn, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội), thờ Hà Quận Công Lê Trọng Thức. Ông là thân sinh của bảng nhãn Lê Quý Đôn. Ông đỗ tiến sĩ và làm quan qua 5 đời vua, thăng đến chức Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu; khi mất được thăng Thái Bảo, tước Hà Quận Công, thuỵ Văn Trinh. Tương truyền, nhân dân được báo mộng có vị thành hoàng đi qua. Quả nhiên hôm sau thấy ông đi thuyền qua xã, bèn ra rước vào xin thờ cúng.

    ---------- Post added at 04:20 PM ---------- Previous post was at 04:20 PM ----------

    [h=4]Đền Tảo Hạ
    [/h]





    Ngôi đền ở làng Tảo Hạ, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Đền thờ các quân tướng triều Lê Trung Hưng tử trận trong trận đánh với quân Mạc Mậu Hợp.


    ---------- Post added at 04:20 PM ---------- Previous post was at 04:20 PM ----------

    [h=4]Đền Bột Hải Hoàng Đế
    [/h]





    Đền ở làng Thái Đường, huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội, thờ người con thứ 6 của Hùng Vương, hiệu là Uyên Hùng. Các triều đều sắc phong Thượng đẳng thần, hàng năm được dự hàng quốc tế. Bột Hải Hoàng Đế cũng là tên tôn xưng của vị thành hoàng Dương Tam Kha, làng Chương Dương, xã Chương Dương, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.


    ---------- Post added at 04:21 PM ---------- Previous post was at 04:20 PM ----------

    [h=4]Đền Ba Vị Đại Vương
    [/h]





    Đền ở thông Đăng Xá, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Đình thờ ba vị đại vương, con ông Lý Quang Dụ thời Trần, đó là Lý Quang Sĩ, Lý Quang Tướng, Lý Quang Thành. Bấy giờ có quân Chiêm Thành xâm lấn nước ta, ba ông đem quân đi đánh, có công được triều đình phong tặng, nhưng họ không nhận. Sau chiến thắng, các ông đi thăm những nơi danh thắng, giúp dân nghèo tiền và thuốc chữa bệnh. Dân làng tôn gọi ba ông là Bao La, Bát Nhà và Qui Chân. Sau khi ba ông qua đời, dân làng lập đền thờ.


    ---------- Post added at 04:21 PM ---------- Previous post was at 04:21 PM ----------

    [h=4]Đền Đông Cao - Đông Cao - Mê Linh - thành phố Hà Nội
    [/h]Đền Đông Cao toạ lạc tại xã Đông Cao, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc (nay thuộc thành phố Hà Nội). Đền thờ Hai Bà Trưng và hai vị tôn thần hiệu là Chàng Cả Minh Đế Đại Vương và Chàng Nhị Minh Kha Đại Vương tức là Trưng cả và Trưng Hai, do kiêng huý mà đọc chệch ra Chàng.



    ---------- Post added at 04:21 PM ---------- Previous post was at 04:21 PM ----------

    [h=4]Đền Dị Trạch
    [/h]






    Ngôi đền thôn Ái, xã Dị Trạch, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
    Đền được khởi dựng từ thế kỷ VI, thờ Lý Nam Đế, sau khi ông mất năm 548. Trải qua nhiều triều đại và nhiều lần tu sửa, hiện nay, còn lại dấu vết kiến trúc ở thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII) và triều Nguyễn.
    Lý Nam Đế tên thật là Lí Bí hay Lý Bôn, sinh năm 503, mất năm 548. Ông là người có công tập hợp binh mã đánh đuổi quân Lương vào thế kỷ thứ 6, lập nước Vạn Xuân, lấy hiệu là Lý Nam Đế. Về sau, quân Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy sang tái xâm lược, quân của Lý Nam Đế không chống cự nổi phải lui về động Khuất Lạo, ông trao quyền cho Triệu Quang Phục tổ chức đánh quân Lương.


    ---------- Post added at 04:22 PM ---------- Previous post was at 04:21 PM ----------

    [h=4]Đền Đỗ Thiên Hứ
    [/h]




    Ngôi đền ở xã Yên Hoà, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc (nay thuộc thành phố Hà Nội), thờ tướng quân Đỗ Thiên Hứ. Năm 1288 đời Trần Nhân Tông, ông vâng mệnh đi sứ sang nhà Nguyên. Năm 1313, ông làm kinh lược vào Nghệ An và Quảng Bình để giúp Chiêm Thành bây giờ đang bị Xiêm La xâm lấn. Năm 1335, Thượng hoàng Trần Minh Tông đi đánh Chiêm Thành, ông bị ốm, nhưng cũng xin đi theo xa giá. Dọc đường bệnh nặng mà qua đời. Trần Minh Tông thương tiếc, truy tặng hàm Thái uý, cho dân bản xã lập đền thờ.




    ---------- Post added at 04:22 PM ---------- Previous post was at 04:22 PM ----------

    [h=4]Đền Cửa Võng
    [/h]Ngôi đền thuộc khu thắng cảnh Hương Sơn, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội), thờ Bà chúa Thượng Ngàn. Tương truyền, bà là người cai quản khu vực rừng núi Hương Sơn, đồng thời nơi đây cũng là nơi ở của các ngọc nữ, thường xuyên mang tin tức từ chùa Ngoài (Thiên Trù) tới chùa Trong (Hương Tích).




    ---------- Post added at 04:23 PM ---------- Previous post was at 04:22 PM ----------

    [h=4]Đền Đại Lộ
    [/h]




    Đền thuộc xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội, thờ Tứ Phủ Thánh Mẫu. Hội đền được tổ chức vào ngày 7 tháng Ba hàng năm. Nghi lễ có rước nước, rước sắn, rước cỗ, hầu bóng.


     
  12. kuangtuan

    kuangtuan New Member

    [h=4]Đền - Chùa Yên Thường
    [/h]




    Cụm di tích đền, chùa Yên Thường mang nhiều nét cổ kính, tọa lạc trên diện tích hơn bốn nghìn mét vuông tại thôn Yên Thị, xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, hiện nay cụm di tích này vẫn giữ nguyên trạng kiến trúc nghệ thuật cổ với nhiều hiện vật có giá trị.

    Từ Vũ Yên Thường




    Thần chủ


    Đền Yên Thường còn được gọi là Từ Vũ Yên Thường. Đền là nơi thờ Quận công Nguyễn Đình Huấn, một quan võ trông nom việc trị an ở Kinh thành Thăng Long, sau được phong tước Quận công. Khi làm quan, ông để tâm giúp đỡ quê hương nên tám thôn, xã trong vùng thờ ông làm Thành hoàng hoặc Phúc thần.


    Kiến trúc


    Đền Yên Thường được xây dựng khoảng cuối thế kỷ 18 (thời Lê), mang nhiều giá trị lịch sử và nghệ thuật. Về nghệ thuật, ngôi đền đạt trình độ cao mà các di tích cùng loại đương thời không sánh kịp. Về kết cấu, đền có không gian rộng, khoáng đạt. Tiếp đến là Tam quan ba gian, sân có tượng chầu, đền thờ chính theo lối bổ dọc ba gian và một chái ở phía trước, còn giữ được nét khởi dựng tương tự chùa Tây Phương. Có thể nói, hình thức thờ này ít thấy ở miền Bắc và có ảnh hưởng của Đông Nam Á.


    Di vật


    Nét nổi trội của đền là các đồ thờ bằng đá. Mở đầu là đôi chó đá khá lớn, trông đơn giản nhưng đầy tính dân gian; trong Tam quan là bộ hộ sĩ đá, hai tượng võ cầm chùy, đầu đội mũ bì biện vành kim khôi cánh hoa cúc, áo mặc hai lớp, ở vai ngực có các mặt hổ phù chạm nổi. Qua Tam quan đến sân có bốn tượng võ vẻ mặt dữ tợn hoặc hiền từ cầm kiếm đứng chầu, có vị râu loe hình quạt, vị râu nhọn…
    Trong đền thờ ở gian ngoài có năm nhang án. Riêng nhang án đặt chính giữa, ở hai góc ngoài là đôi sư tử, phía trong là hai lọ hoa, giữa là bát hương. Tất cả tạo thành một khối đá với bốn mặt khắc chữ Hán niên đại Cảnh Hưng. Hai nhang án bên nhỏ hơn bày theo chiều dọc. Gian hậu cung có một khán đá và hai bài vị ở hai bên đặt trên một phiến đá lớn hình chữ nhật, chạm khắc theo hình kiểu long đỉnh, bốn góc mái khum có chỏm.
    Đền còn lưu giữ quyển Tộc phả Nguyễn Đình ghi từ đời Quận công Nguyễn Đình Huấn, do cử nhân Ngô Đông sao chép năm 1940.



    Phúc Nương Tự




    Nguồn gốc


    Chùa Yên Thường có tên chữ là Phúc Nương Tự, được lập bia từ ngày 27 tháng 10 niên hiệu Hoằng Định thứ bảy (tức năm 1606). Tương truyền, các quan viên, chức sắc thôn trưởng cùng già trẻ lớn bé ở thôn Yên Thị, xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc, nước Đại Việt thời bấy giờ đồng lòng trùng tu chùa Phúc Nương là nơi danh lam thắng cảnh. Đây là chùa lớn và có từ sớm, in đậm nhiều dấu tích của lịch sử đời Lê Sơ.


    Đặc điểm


    Tại chùa còn lưu giữ bia “Trùng tu Phúc Nương tự bi” do Nguyễn Chuyết Phu - Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu đời vua Mạc Mậu Hợp (1589), làm quan đến chức Hình khoa Cấp sự trung soạn năm Hoằng Định thứ bảy (1606) cho biết: chùa Phúc Nương là danh lam của đất Đông Ngàn, từng được nhiều người có thần thế góp sức sửa sang như Tán trị Khai quốc công thần Thái sư Lương Quốc Công, Trung Nam vương Lê Thạch, Tán trị Khai quốc công thần Thái uý Tán Quốc Công, Mục Chiêu Trưng Vương Lê Khôi, Thiếu bảo Lê Quốc Trinh... Nay các vị chức sắc và mọi người thôn Yên Thị tuân lệnh Thái uý Ngạn Quốc công Trịnh Đỗ tra rõ được số ruộng chùa mà ngài Thái thường tự Khanh, Văn Thụy tử Đàm Đình Tuyên đã biên chép đầy đủ, bèn khắc vào bia để lưu truyền lâu dài.
    Mặt sau bia khắc tên các vị: Lê Khôi, Đàm Đình Tuyên, Trịnh Đỗ và 140 quan viên hương trưởng cúng số ruộng đất để phụng thờ Tam Bảo. Công đức ấy thật là to lớn như núi cao, sáng mãi như mặt trời, mặt trăng. Dân làng thấy vậy nên quyết định ghi lại sự tích trùng tu nhà chùa vào đá truyền lại đời sau.
    Đến sau năm 1945, ngôi chùa được trùng tu lại và giữ nguyên cho tới tận bây giờ. Chùa vẫn giữ được nét đơn sơ, cổ kính, thanh tịnh và tôn nghiêm khác hẳn những ngôi chùa mới phục dựng.






    ---------- Post added at 04:24 PM ---------- Previous post was at 04:23 PM ----------

    [h=4]Cụm di tích Đền - Chùa Bà Tấm
    [/h]



    Đền và chùa Bà Tấm là một công trình kiến trúc tôn giáo thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Đền còn có tên gọi là đền Dương Xá, đền Ỷ Lan. Chùa có tên chữ Hán là Linh Nhân Từ Phúc Tự.
    Lịch sử và truyền thuyết


    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Cổng chùa Bà Tấm - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Tương truyền đền và chùa Bà Tấm là một trong những di tích lịch sử văn hoá cổ nhất nước ta, được xây dựng từ thời Lý. Chùa do Ỷ Lan Linh Nhân Hoàng Thái hậu cho xây dựng năm 1115. Ỷ Lan là một nhân vật lịch sử của vương triều nhà Lý, là người tài đức vẹn toàn và đóng góp nhiều công lao cho sự phát triển của đất nước. Theo các tài liệu còn lưu lại đến hiện nay tại quê hương của bà thì Ỷ Lan tên thật là Lê Thị Yến (có tài liệu cho là Lê Thị Mệnh), quê làng Thổ Lỗi, sau đổi thành Siêu Loại, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Chuyện kể rằng khi vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072) trong một lần về chùa Dâu cầu tự, tình cờ gặp một cô gái hái dâu ở làng Thổ Lỗi đang đứng xa khỏi đám đông, dựa vào gốc lan. Thấy cô gái xinh đẹp, lại có tài đối đáp nên vua đưa về cung, nhân việc gặp gỡ dưới gốc lan mà đặt tên là Ỷ Lan (dựa vào gốc lan). Về sau bà sinh con trai, được phong làm Nguyên phi.
    Ỷ Lan là một cô gái thông minh và sâu sắc, sau một thời gian vào cung, bà chăm chỉ đèn sách nên hiểu biết về nhiều mặt. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông cùng đại quân Nam chinh, trao quyền nhiếp chính cho bà. Nhờ định kế sách đúng đắn, quyết đoán và táo bạo nên bà đã dẹp yên được loạn lạc, yên định lòng dân. Năm 1072, vua Lý Thánh Tông qua đời, con bà lên nối ngôi nhưng vì hoàng đế còn nhỏ tuổi nên bà lại buông rèm nhiếp chính, đưa đất nước ngày một trở nên cường thịnh, huy động sức dân đánh bại cả kẻ thù xâm lược. Từ đây, Ỷ Lan là một nhân vật lịch sử đã được nhân dân tôn lên là Phật Bà Quan Âm. Các huyền thoại, truyền thuyết về bà phủ trùm lên một vùng văn hoá lịch sử của xứ Kinh Bắc xưa và được nhân dân hoá thân thành một nhân vật cổ tích, gọi là Bà Tấm.
    Ỷ Lan đã cho dựng nhiều chùa chiền trong thời gian bà còn sống, trong đó có ngôi chùa Linh Nhân Từ Phúc tự ở làng Thổ Lỗi quê hương bà. Năm 1117, Ỷ Lan qua đời, ngôi đền thờ bà cũng được dựng bên cạnh chùa. Tên đền và chùa được gọi chung là Đền - chùa bà Tấm. Đây là nơi để lễ Phật và cũng là nơi tưởng niệm bà của nhân dân trong vùng. Trong quá trình tồn tại, đền - chùa Bà Tấm luôn được sửa chữa, trùng tu và xây mới. Văn bia còn lại tại chùa cho biết vào thế kỉ XVI, XVII, XVIII, các vương phi, quận chúa họ Trịnh cũng đã nhiều lần công đức tiền của cùng nhân dân trong vùng tu bổ lại chùa.

    Kiến trúc


    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Khuôn viên chùa - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Cụm di tích Đền - chùa Bà Tấm được xây dựng trên một gò đất cao bên hữu ngạn sông Thiên Đức. Qua biến thiên của thời gian, mặt bằng di tích đã có nhiều thay đổi. Kiến trúc xây dựng từ thời Lý nay đã không còn, thay vào đó là các kiến trúc mang dấu ấn của thời gian đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên, theo các văn bia còn lưu lại thì đền được xây dựng vào cuối thế kỉ XI, kiến trúc theo lối cung đình có 72 cửa. Trong đền có nhiều di vật quý, nổi bật là hai tượng sư tử tạo bằng đá liền khối cao 1,2m rộng 1,36m trong tư thế phủ phục, đường nét đặc biệt mềm mại. Tượng sư tử ở đền có hình tượng đang vờn ngọc, trên trán có trổ chữ Vương nhằm thể hiện uy quyền của vương triều. Trong đền còn có một thành bậc bằng đá chạm nổi rồng và lân đang chạy xuống. Thành đá dài 1,3m cao 0,8m. Hậu cung đền có tượng Ỷ Lan được tạo tác rất đẹp, tạc khi bà là Nguyên phi cùng 6 vị cung nữ trong triều. Gian ngoài có đặt ngai thờ và một số đồ tế khí. Trên ngai có bài vị ghi: Lý triều đệ tam Hoàng thái hậu.
    Qua các tài liệu còn lưu lại đến ngày nay thì ta có thể biết vào thời Lý, các công trình kiến trúc đền - chùa đều được xây dựng với quy mô lớn. Các giai đoạn sau đó, công trình được trùng tu, sửa chữa nhiều lần, đặc biệt là vào thời Lê Trung hưng, di tích được xây mới lại hoàn toàn, mặt bằng và diện mạo kiến trúc thay đổi. Có lẽ đây là lý do mà các nhà nghiên cứu dù rất chuyên tâm cũng không tìm thấy các dấu hiện kiến trúc Phật giáo thời Lý tại đây.
    Ngoài các di vật kể trên, đền - chùa Bà Tấm còn có nhiều bia đá thời Lê và Nguyễn (1 bia niên hiệu Dương Hoà năm thứ 7 - 1641; 1 bia niên hiệu Hoằng Định năm thứ 17 - 1617; 2 bia niên hiệu Đức Long năm thứ 7 - 1635; 1 bia niên hiệu Bảo Đại năm thứ 18 - 1943) và hệ thống chân tảng, trong đó đáng chú ý là các chân tảng bằng đá sa thạch thời Lý - Trần và nhiều di vật khác thời Lê - Nguyễn.

    Lễ hội


    [TABLE]
    <tbody>[TR]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Phương đình - Ảnh: Hoàng Chí Hùng[/TD]
    [/TR]
    </tbody>[/TABLE]
    Lễ hội đền - chùa bà Tấm diễn ra 5 năm 1 lần, kéo dài từ 16 - 22/2 ÂL, tương truyền là ngày giỗ bà. Ngoài ra vào các dịp xuân thu, những ngày sóc vọng đều có lễ trong đền. Về việc chuẩn bị và tế lễ để đền - chùa bà Tấm được miêu tả lại trong các tài liệu lưu trong đền là: "Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn, không phải chỉ có Dương Xá và Thuận Quang tổ chức, mà cả tổng Dương Quang cũ (gồm chín xã suốt từ Sủi (Phú Thị) cho tới Văn Lâm (Hải Hưng) và những làng cấy ruộng hậu của đền. Trong đền còn giữ được tấm bia ghi rõ tên các làng cấy ruộng hậu của đền với số lượng cụ thể. Do hội khá lớn, nên thường phải năm năm mới tổ chức một lần. Hội cuối cùng, theo trí nhớ của dân làng, được tổ chức vào năm 1939, nhiều người còn nhớ cả tên người được giải cờ người năm đó là ông Trần Nhật Tân. Trước đây chính hội là từ 19 đến 22 tháng 2 âm lịch, nhưng thực chất người ta đã rục rịch từ ngày 16 và đến tận 25 tháng 2 mới hết hội. Ngay từ tiệc đầu xuân dân làng đã tụ hội tại đền để chuẩn bị hội xuân tế lễ cẩn cáo với Bà, mong phù hộ cho làng. Dân làng chọn cử các tiên chỉ, tổng cờ, ban tế cùng các việc khác cho ngày hội.
    Ngày 19-2 (âm lịch tương truyền là ngày sinh của bà Tấm. Ngày hội được mở đầu bằng một đám rước long trọng - rước nước. Đám rước khởi hành từ đền Bà Tấm lên tới giếng nước cạnh chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km. Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến là Tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát bửu. Liền sau đó là long đình rước bà ỷ Lan (bài vị), có những người phục dịch theo kiệu. Đường đi từ đền theo đường 179 ngày nay lên Sủi. Sau kiệu Bà là kiệu đựng chóe dùng lấy nước. Các cụ già còn nhớ trước kia trong đền có một chiếc chóe bằng sứ Nhật Bản rất cao và to, nhưng nay đã bị mất. Ngoài ra là kiệu của các thôn thuộc Dương Xá và tất cả các làng cấy ruộng nhà đền. Do vậy mà đám rước rất lớn và dài, bởi vì ruộng đất lộc của bà trải rộng tới tận Nghĩa Trai, Bình Trù, Liên Mỹ. . . Bà cũng được coi là Mẫu nghi thiên hạ. Do qui mô của đám rước dài và lớn như vậy nên nó kéo dài tới bốn năm tiếng đồng hồ mới rước được nước về tới đền.
    Trong lúc diễn ra cuộc rước nước, thì từ các thôn cũng tiến hành rước lễ vật ra đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào đền yên vị, cuộc tế lễ bắt đầu. Các bô lão năm thôn được cử vào ban tế tiến hành kiểm tra lễ vật rất nghiêm ngặt. Lễ vật để tế lễ trong ngày hội hoàn toàn là trầu, rượu. Từ thượng cổ năm nào cũng vậy có chăng thêm thì chỉ có bánh gai, bánh mật mà thôi.
    Tương truyền việc làm oản xôi thờ cũng phải rất tinh khiết. Phải dùng nước ở giếng Quán Đôi, đầu thôn Dương Đình, gánh về nhà trước đó ba bốn ngày để thật trong, khi đó mới đem ra vo gạo và thổi xôi, như vậy mới đảm bảo độ tinh khiết. Sau khi đã xem xét lễ vật một cách kỹ lưỡng, cuộc tế lễ bắt đầu".
    Ngoài việc tế lễ, lễ hội đền Bà Tấm còn có các trò chơi như tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo... Ngày 22/2 là ngày tế rã đám và kết thúc hội.
    Lễ hội đền - chùa Bà Tấm là một lễ hội lớn của nước ta, thu hút nhiều người dân, không chỉ trong vùng mà cả ở các địa phương khác đến tham dự.

    Khai quật di tích


    Xác định khu di tích đền - chùa Bà Tấm là một địa điểm lịch sử quan trọng về sự hình thành và phát triển của kinh thành Thăng Long thời kì đầu hình thành và phát triển nên các chuyên gia của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu và khai quật, điều tra khu di tích. Cuối năm 2005, đoàn khai quật đã khai quật tại 10 hố đào với diện tích khoảng 200m2, thu được nhiều phế tích và vết tích kiến trúc thời Lý, Trần, phản ánh diện mạo kiến trúc cũng như sinh hoạt tín ngưỡng nơi đây. Trong số các hiện vật thu được, các nhà nghiên cứu cho biết có nhiều hiện vật có tính đặc trưng của thời Lý, Trần, Lê có giá trị nghiên cứu và trưng bày. Việc khai quật cũng giúp các nhà khoa học khẳng định chắc chắn về các dấu tích cư trú và mộ táng thời Bắc thuộc, đồng thời cũng xác định được vị trí phân bố ngôi chùa xưa khá trùng khớp với khu trung tâm di tích hiện đại.





    ---------- Post added at 04:24 PM ---------- Previous post was at 04:24 PM ----------

    [h=4]Đền - Lăng Ngô Quyền
    [/h]Vị trí


    Xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây (Hà Nội) - nơi được mệnh danh là vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Đến làng quê yên ả này, du khách sẽ được thăm đền thờ và lăng Ngô Quyền, di tích đã được nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, nơi thờ vị vua lừng danh trong lịch sử dân tộc, người nổi tiếng với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938, đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi, mở ra một thời đại mới, độc lập, tự chủ cho dân tộc Việt Nam.
    Đền và lăng Ngô Quyền được xây dựng trên một đồi đất cao, có tên là đồi Cấm, mặt hướng về phía đông. Đền thờ được xây ở phía trên, cách lăng khoảng 100 m. Phía trước lăng là cánh đồng rộng nằm giữa 2 sườn đồi; một nguồn nước gọi là vũng Hùm chảy ra sông Tích; bên cạnh đó là đồi Hổ Gầm, tương truyền xưa là nơi thuở nhỏ Ngô Quyền thường cùng bạn chăn trâu, cắt cỏ và tập luyện võ nghệ. Đây có lẽ là vị trí đẹp nhất của ấp Đường Lâm xưa.

    Đặc điểm


    Đền thờ Ngô Quyền được xây dựng từ lâu đời và đã qua nhiều lần trùng tu. Lần tu sửa gần đây nhất là vào thời vua Tự Đức (1848 - 1883). Đền có quy mô khá khiêm tốn, gồm: Nghi Môn, Tả Mạc, Hữu Mạc, Đại Bái (Tiền Đường) và Hậu Cung. Đền được xây bằng gạch, lợp ngói mũi hài, có tường bao quanh. Đại Bái đền thờ là một nếp nhà 5 gian, bộ khung bằng gỗ, được thể hiện chủ yếu thiên về sự bền chắc, tôn nghiêm; gian giữa có treo bức hoành phi đề bốn chữ Hán “Tiền vương bất vong” (Vua Ngô Quyền sống mãi). Hiện nay, Đại Bái còn được dùng làm phòng trưng bày về trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng và thân thế, sự nghiệp của Ngô Quyền. Hậu Cung là một ngôi nhà dọc 3 gian, bộ khung nhà bằng gỗ được trang trí hình rồng, hoa, lá... Gian giữa có đặt tượng thờ Ngô Quyền.
    Lăng mộ Ngô Quyền được trùng tu năm Tự Đức thứ 27 (1874). Lăng được xây kiểu nhà bia có mái che, cao khoảng 1,5 m. Giữa lăng là ngai, trong có bia đá tạo năm Minh Mạng thứ 2 (1821), bia ghi bốn chữ Hán “Tiền Ngô Vương Lăng”.
    Đặc biệt, trong quần thể đền và lăng Ngô Quyền, có 18 cây duối cổ - tương truyền là nơi Ngô Quyền buộc voi, ngựa. Năm 2011, rặng duối cổ đã được công nhận là “Cây di sản” cấp quốc gia.
    Hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 8 âm lịch (ngày giỗ Ngô Quyền vương) nhân dân trong vùng lại về đây để tưởng nhớ công ơn của ông - vị vua “đã mở nước xưng vương”, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở đầu một thời đại mới, độc lập, tự chủ cho lịch sử dân tộc.
     

Chia sẻ trang này