Theo truyền thuyết thì Ông Hoàng Đôi là người Mán có công đánh giặc bảo vệ dân lành. Trong văn ông Bẩy mô tả Ông Hoàng Đôi có công đánh trận cùng ông Hoàng bảy. Chính vì vậy mà người ta còn gọi Ông Hoàng Đôi là Ông Hoàng Đôi Bảo Hà. Trong văn ông bảy có câu rằng: "Doanh trung thương có hai hoàng vào ra Quan Hoàng Bảy Bảo Hà chính vi Cùng tướng công Đệ Nhị Hoàng Hai Can qua dâu bể biển đời...” Ông Hoàng Đôi không phải là Quan Triệu Tường Trong xứ Thanh Hóa thì lại đồng nhất Quan Hoàng Đôi với quan Triệu Tường. Tuy nhiên theo quan điểm của cá nhân tôi thì không đúng vì những lý do sau: -Thứ nhất: Quan Hoàng Đôi giáng trần cùng thời với quan Hoàng Bẩy bảo Hà, điều này được khẳng định trong bản văn ông Hoàng Bẩy như sau: “Quan Hoàng Bẩy Bảo Hà chính vị Cùng tướng công đệ nhị Hoàng Đôi Can qua dâu bể biến dời Anh hùng xưa đã ra người cung tiên” Mà theo truyền thuyết kể lại thì Quan Hoàng Bẩy giáng trần vào cuối đời Lê niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786). Thời đó khắp vùng Quy Hóa gồm Châu Thủy Vĩ và Châu Văn Bàn (thuộc Lào Cai bây giờ) luôn bị giặc vùng phương Bắc tràn sang cướp phá, giết hại dân lành. Trước cảnh đau thương tang tóc ấy, tướng Nguyễn Hoàng Bẩy được triều đình giao trọng trách khởi binh dẹp loạn vùng biên ải. Đội quân của ông tiến dọc sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng Châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Trong một trận chiến không cân sức với quân giặc, ông đã anh dũng hy sinh, thi thể ông trôi theo sông Hồng tới Bảo Hà thì dạt vào bờ. Nhân dân trong vùng đã vớt, an táng thi thể ông và lập đền thờ tại đây để ghi nhớ công đức to lớn của ông. -Thứ hai: Quan Triệu Tường không giáng trần cùng thời với ông Hoàng Bẩy Bảo Hà. Điều này được khẳng định trong bản văn Quan Triệu Tường: “Việt sử chép đời Lê Thái Tổ Đức Nguyễn Kim phò chúa an dân Sinh ông Hoàng Triệu trung thần Đã hay kinh sử lại nhuần binh thư” ... “Quan Triệu ngài vâng lệnh bài sai Đề binh mã ra ngoài Bắc trấn Vận thần toán bày binh bố trận Mạc thế cùng chiếu cuốn thu quân Nẻo Cao Bằng, Mạc chúa ẩn thân” Trước hết có thể thấy về sự tích thì ông Hoàng Triệu là con trai của Nguyễn Kim (1468 – 1545), ông tham gia vào công cuộc Phù Lê Dẹp Mạc ở những giai đoạn khi nhà Mạc rút lên Cao Bằng cát cứ, giai đoạn lịch sử này ứng với khoảng thời gian những năm 1620. Và cho đến khi nhà Mạc thực sự chấm dứt thì cũng chỉ vào năm 1677. Như vậy xét về mặt lịch sử Quan Hoàng Triệu phải giáng trần trước Quan Hoàng Bẩy Bảo Hà, không thể là anh em của Quan Hoàng Bẩy Bảo Hà được. Do vậy nếu coi Quan Hoàng Triệu là Quan Hoàng Đôi thì sẽ không phù hợp như trong bản văn ông Hoảng Bẩy: “Cùng tướng công đệ nhị Hoàng Đôi Can qua dâu bể biến dời” - Thứ ba: Dựa trên quan điểm về Tín ngưỡng Tứ Phủ thì vị trí thứ hai trong hệ thống thần linh sẽ thuộc về Nhạc Phủ, ví dụ như Quan đệ nhị, Chầu đệ nhị, Cô đôi, Cậu đôi. Vậy thì Quan hoàng đôi phải thuộc về Nhạc phủ, tuy nhiên lịch sử về Quan Triệu Trường cũng như đền thờ của ngài lại cho thấy ngài không thuộc về Nhạc phủ. Đây là một lý do nữa để khẳng định Quan Triệu Tương không phải là Quan Hoàng Đôi. Như vậy quan Hoàng Đôi thực sự là người Mán, đền thờ ở Cẩm Phả. Ông tham gia trận đánh trên thượng ngàn và đền thờ của cũng được thờ ở trên vùng thượng ngàn cùng với ông Hoàng Bảy, như vậy ông thuộc Nhạc Phủ (ngôi đệ nhị) là hợp lý. Trong bản văn ông Hoàng Đôi cũng nhắc đến địa danh Bảo Hà, điều này cho ta sự liên hệ tới quan Hoàng Bẩy Bảo Hà, dưới đây là bản văn ông Hoàng Đôi: “Bảo Hà coi chốn rừng xanh Thổ Nùng Thổ mán phục tình làm tôi Sắc phong chính hiệu Hoàng Đôi Mười hai cửa bể mọi nơi đi về” Hầu giá Quan Hoàng Đôi Ngài ngự áo xanh lá cây theo sắc phong của bốn phủ, chít khăn mỏ rìu, mặc áo trấn thủ, đi mạng chéo, đi ghệt tay và ghệt chân, múa hèo. Sau khi làm lễ khai quang, Ngài đi hèo ngự tọa, hiến tửu, nghe thơ, ban phát lộc tài. Trước đây chỉ những đồng cựu, chủ nhang, đồng đền, đạo trưởng mới hầu Ngài. Có quan điểm cho rằng trước kia không mấy ai hầu Ông Hoàng Bẩy mà chỉ hầu Ông Hoàng Đôi. Sau này thì người ta hầu Ông Hoàng Bẩy là chủ yếu và ít khi hầu Ông Hoàng Đôi hơn. Người ta thường hầu một trong hai ông vì hai ông đánh giặc cùng với nhau nên ở cùng một đền trên Bảo Hà. Đền thờ Quan Hoàng Đôi (Cẩm Phả) Đền Ông Hoàng Đôi ở Cẩm Phả là đền tư, còn gọi là đền Hoàng Đôi Bảo Hà, vì đền này rước ông Hoàng Đôi từ trên Bảo Hà về thờ. Thủ nhang lập ra ngôi đền tư này là cụ đồng Nhâm. Văn Quan Hoàng Đôi – Bản văn Hoàng Đôi đem quân lên ngàn Đùng đùng súng nổ dậy vang khắp trời Sớ văn tấu thỉnh khuyên mời Thỉnh Hoàng linh ứng ngự chơi đền này Quan Hoàng vạn phép trong tay Tam sanh sửa lễ khi nay khẩn cầu Ai thời căn số phải hầu Lập đàn thỉnh bóng, quy đầu làm tôi Thánh Hoàng hoá phép trên trời Hải môn bốn bể khắp nơi quyền hành Bảo Hà coi chốn rừng xanh Thổ Nùng Thổ mán phục tình làm tôi Sắc phong chính hiệu Hoàng Đôi Mười hai cửa bể mọi nơi đi về Con vua Bát Hải thuỷ tề Long thần Hoàng cưỡi đi về sớm khuya Bấy giờ có sớ dâng lên Vua Cha giáng chỉ hạ truyền phán ra Kíp ngay diệt lũ yêu ma Thánh hoàng đội lệnh bước ra sân rồng Ba quân, lĩnh ấn công đồng Kiếm thiêng ra phép thần thông xoay vần Trên trời nổi trận phong vân Sai lôi lôi giáng tối tăm mịt mờ Pháp màu biến ứng thần cơ Quỷ tan tà tán bấy giờ thu lôi Chiêng kêu, trống đánh ba hồi Thượng đường mở hội đón người lên công Vua cha ban sắc tặng phong Càng thêm tối tú oai hùng uy quang Tiểu tôi bái lạy đức Hoàng Dám xin soi xét trần gian lỗi lầm Hoàng về giáng lưu ân Khuông phù đệ tử thiên xuân thọ trường [h=3]Văn Quan Hoàng Đôi – Bản 2[/h]Hoàng Đôi lại sinh ra sau (2 lần) Anh linh giáng thế ngự đồng hôm nay ông về đồng ra tay chấp chính kỷ cương. Cầm cân nảy mực sửa sang cõi phàm Chốn long nghỉ quyền quan chính ngự Cảnh thuyền rồng tiên nữ chèo qua. Quan ông dưỡng dục trên bờ Khắp dòng sông ấy ông ngự thật là vui Thỉnh mời đệ nhị ông Hoàng Thống trị thiên hạ mọi nơi xa gần. Thỉnh mời ông Hoàng đế tinh quân Đệ Nhị ông ở rừng xanh ngự về Vốn xưa ông Ngự thiên đình Quyền cai các vị liệt tinh thiên tài. Số tinh, số tử ở đời Tay ông biến phép chẳng sai số nào Quân cai văn võ thiên tào Khi trong bệ ngọc, khi vào toà sen Thông minh trí tuệ trăm đường Quyền ông cai quản chẳng nhường chi ai. Ra uy cập vũ thu am Tự nhiên dựng nước đi tuần cõi xa Văn mời nước: Hỡi cô chuốc rượu vậy thời nơi nao Tề tay tiên chuốc chén rượu đào Dâng lên là lên cúng Mẫu Dâng vào tiên thánh Hoàng sơi. Đệ nhất tuần sơ, ông đã hiểu rồi Đệ nhị tuần á, chúc chén rượu đầy. Các cô dâng lên cúng Mẫu Các cô dâng vào tiên thánh Hoàng sơi. Đệ nhất tuần sơ, đệ nhị tuần á, đệ tam tuần chung Các cô dâng lên cúng Mẫu Các cô dâng vào tiên thánh Hoàng sơi.